Pages

Wednesday, August 1, 2012

Dạy tiếng Việt trong môi trường song ngữ: sự tương tác giữa gia đình và học đường.

image


Muốn dạy tiếng Việt – cũng như bất cứ ngôn ngữ nào - có hiệu quả, cần có bốn điều kiện chính: một, xác định được đối tượng đang học tiếng Việt; hai, xác định bản chất ngôn ngữ của đối tượng ấy; ba, từ bản chất ấy, chọn lựa một phương pháp giảng dạy thích hợp; và bốn, cần có một số yếu tố liên quan đến môi trường văn hóa và xã hội cũng như liên quan đến tính cách của giáo viên để việc tương tác giữa giáo viên và học sinh được tiến hành tốt đẹp, qua đó, học sinh, một mặt, phát triển các kỹ năng giao tiếp của mình; mặt khác, có động lực học một cách chuyên cần và lâu dài để đến một lúc nào đó, có thể sử dụng thành thạo cái ngôn ngữ mình đang học. 


Trong bài này, tôi chỉ xin giới hạn ở hai điều kiện đầu, từ đó, phân tích một số đặc điểm nổi bật trong mối quan hệ giữa gia đình và các trường Việt ngữ trong việc dạy tiếng Việt cho trẻ em ở hải ngoại.

Thứ nhất, liên quan đến đối tượng. Hiện nay, có ba thành phần chính đang học tiếng Việt: trẻ em ở Việt Nam; trẻ em gốc Việt ở ngoại quốc; và người ngoại quốc đang học tiếng Việt ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài.

image


Bản chất ngôn ngữ của mỗi thành phần khác nhau. Với trẻ em ở Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ nhất; với người ngoại quốc, nếu sống hẳn ở Việt Nam, tiếng Việt sẽ là ngôn ngữ thứ hai, nếu chỉ ở Việt Nam một thời gian ngắn cũng như nếu chỉ học tiếng Việt ở ngoài Việt Nam, tiếng Việt là một ngoại ngữ. Xin lưu ý, đối với giới nghiên cứu, hai khái niệm sau khác nhau: Ngôn ngữ thứ hai (second language) là ngôn ngữ được dạy ngay trong môi trường ngôn ngữ ấy được sử dụng để học sinh, bước ra khỏi lớp, vẫn có thật nhiều cơ hội nghe, thấy và vận dụng những gì mình đã học. Ngoại ngữ (foreign language), ngược lại, là ngôn ngữ được giảng dạy ở một xứ sở có văn hoá khác, với một ngôn ngữ khác, nơi học sinh ít có cơ hội tiếp xúc và thực hành. Ví dụ, tiếng Anh, ở Việt Nam, với người Việt Nam, là một ngoại ngữ; nhưng ở Úc hoặc Anh, Mỹ, Canada, với người di dân - trong đó có người Việt Nam, ngược lại, là ngôn ngữ thứ hai.[1]

Còn với trẻ em gốc Việt ở hải ngoại thì sao?

Không có câu trả lời chung. Có mấy trường hợp chính. Một, với những em dù sinh ra trong gia đình Việt Nam nhưng chưa bao giờ học tiếng Việt và cũng chưa bao giờ nghe tiếng Việt, ngay cả từ bố mẹ, tiếng Việt sẽ là một ngoại ngữ; hai, với những em ít nhiều giao tiếp tiếng Việt trong gia đình dù không được học chính thức, tiếng Việt sẽ là ngôn ngữ thứ hai. Nhưng trường hợp thứ ba này, theo tôi, hiện nay phổ biến nhất: với các em học tiếng Việt và tiếng Anh (hay bất cứ ngôn ngữ nào khác nơi các em đang sống; ở đây, để cho tiện, chỉ tập trung vào các xứ nói tiếng Anh) hầu như cùng lúc, tiếng Việt sẽ là một trong hai ngôn ngữ chính mà các em thụ đắc, hoặc nói cho gọn, một song ngữ (bilingualism).

Nhưng song ngữ là gì?

Nói một cách đơn giản, song ngữ là biết hai ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, ở đây lại có rất nhiều vấn đề. Thứ nhất, thế nào là biết? Cái gọi là “biết” ấy có ba cấp độ chính: một là chỉ có thể tiến hành các hoạt động giao tiếp ở mức căn bản liên quan đến một số nhu cầu đơn giản trong đời sống hàng ngày; hai là khá trôi chảy trong một số loại đề tài nào đó; và ba là thông thạo cả hai như tiếng mẹ đẻ. Thứ hai, về trình tự học các ngôn ngữ ấy. Ở đây lại có ít nhất ba trường hợp: một là học tiếng Việt trước, tiếng Anh sau; hai là học tiếng Anh trước, tiếng Việt sau; và ba là học cả hai thứ tiếng cùng lúc. Hai trường hợp đầu thường được gọi là song ngữ tuần tự (sequential bilingualism); trường hợp sau cùng được gọi là song ngữ đồng thời (simultaneous bilingualism).

Kết hợp tất cả các yếu tố kể trên, cái gọi là song ngữ của trẻ em Việt Nam ở nước ngoài, cụ thể là ở các xứ nói tiếng Anh, có thể được chia thành hai loại chính: song ngữ quân bình (balanced bilingualism) và song ngữ mất quân bình (unbalanced bilingualism).

image


Khái niệm song ngữ quân bình được ba nhà ngôn ngữ học W. E. Lambert, J. Havelka và R. C. Gardner đưa ra lần đầu tiên năm 1959 trong bài “Linguistic Manifestations of Bilingualism” đăng trên tờ The American Journal of Psychology khi nghiên cứu về tình trạng song ngữ ở Canada. Theo họ, người được xem là song ngữ quân bình là kẻ có thể sử dụng hoàn hảo cả hai thứ tiếng như cả hai đều là ngôn ngữ thứ nhất (hay tiếng mẹ đẻ) của họ. Nhiều nhà nghiên cứu cho những người có hai ngôn ngữ thứ nhất như vậy rất hiếm. Cực hiếm. Thường, trong hai thứ tiếng mà người ta nói trôi chảy vẫn có một thứ tiếng nào đó người ta giỏi hơn, cảm thấy gần gũi, gắn bó và dễ dàng hơn.
Song ngữ mất quân bình là tình trạng tuy có thể sử dụng hai thứ tiếng nhưng trong đó có một thứ tiếng nổi trội như một yếu tố chủ đạo (dominant bilingual), lấn át hẳn thứ tiếng kia. Phần lớn trẻ em Việt Nam ở hải ngoại là thuộc loại này. Ở đây lại có mấy trường hợp khác nhau:

Một, lúc mới sinh ra, các em học tiếng Việt trước, đến lúc đi nhà trẻ, hoặc thậm chí, vào mẫu giáo, các em mới học tiếng Anh. Như vậy, cho đến lúc các em đi học, tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chủ đạo.

Hai, từ lúc sơ sinh, các em học tiếng Việt và tiếng Anh hầu như cùng lúc: trong khi bố mẹ và ông bà dạy các em nói tếng Việt; anh chị của các em cũng như môi trường chung quanh lại dạy các em nói tiếng Anh. Tuy nhiên, ở đây thường vẫn có một ngôn ngữ nào đó nổi bật hẳn lên. Ví dụ, nếu ông bà và bố mẹ nói chuyện với các em nhiều hơn, tiếng Việt sẽ là ngôn ngữ chủ đạo; nếu các anh chị cũng như nhân viên nhà trẻ nói chuyện với các em nhiều hơn, tiếng Anh lại trở thành ngôn ngữ chủ đạo.

Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp kể trên, quan hệ giữa ngôn ngữ chủ đạo và ngôn ngữ thứ yếu không phải cố định. Chúng thay đổi khá thường xuyên và có khi rất nhanh chóng. Xu hướng chính và chung là: khi các em đến tuổi đi học chính thức, tức từ lớp 1 trở lên, tiếng Anh sẽ trở thành ngôn ngữ chủ đạo; tiếng Việt bị chìm xuống thành một thứ ngôn ngữ thứ yếu hoặc có khi, tệ hại hơn nữa, chỉ đủ để tiếp nhận, chủ yếu bằng lỗ tai (nghe)  chứ không thể sản xuất (nói và viết), dần dần trở thành một người song ngữ thụ động (passive bilinguals), hoặc song ngữ giảm trừ (subtractive bilinguals), ở đó, kiến thức và kỹ năng tiếng Việt càng ngày càng giảm và yếu dần; cuối cùng, thành bán song ngữ (semibilingualism), ở đó, với tiếng Việt, các em chỉ biết một cách sơ lược, đại khái, nghèo nàn chứ không có kỹ năng để sử dụng nó như một công cụ giao tiếp thực sự.

Như vậy, chúng ta có thể hình dung tình hình ngôn ngữ của trẻ em thuộc thế hệ thứ hai hoặc thứ ba ở hải ngoại (ví dụ ở các xứ nói tiếng Anh) ở các lớp tiếng Việt đại khái như sau:

image

Nếu so sánh với tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ nhất và tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai hoặc một ngoại ngữ, tiếng Việt như một song ngữ ở hải ngoại có một số ưu và khuyết điểm như sau:

So với tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ nhất, tức tiếng Việt của trẻ em Việt Nam ở Việt Nam, tiếng Việt của trẻ em song ngữ có một số khuyết điểm rõ rệt:


Cách phát âm không chuẩn bằng
Từ vựng nghèo nàn hơn
Các kỹ năng ngôn ngữ không đồng đều
Cách diễn đạt thiếu phong phú và tinh tế
Tuy nhiên, các em lại hơn hẳn trẻ em ở Việt Nam ở hai khía cạnh:

Một, ý thức siêu ngôn ngữ (metalinguistic awareness) tức khả năng khách thể hóa ngôn ngữ như một hình thức hoặc một tiến trình để có thể quan sát và nhận xét về ngôn ngữ ấy như một người ngoại cuộc. Ý thức siêu ngôn ngữ bao gồm ba khía cạnh chính: một, ý thức về ngữ âm, về quan hệ giữa các âm vị (phoneme) và tự vị (grapheme) cũng như giữa âm thanh và ý nghĩa; hai, về hình thái học (morphological), chủ yếu trong cách cấu tạo từ; và ba, về các quy luật ngữ pháp. Ví dụ, với người đơn ngữ (monolingual), chỉ biết một thứ tiếng, người ta dễ có cảm tưởng ý nghĩa của từ nằm ở sự vật và quan hệ giữa từ và sự vật là một cái gì tất yếu và cố định; chỉ cần học thêm một thứ tiếng gì khác, người ta sẽ phát hiện ra là, với cùng một sự vật, ở hai ngôn ngữ khác nhau, người ta sẽ có hai cách gọi tên khác nhau; và như vậy, một, ý nghĩa của từ nằm trong đầu óc người nói hơn là ở sự vật; và hai, quan hệ giữa từ và vật là một thứ quan hệ ít nhiều võ đoán; và đi xa hơn, mọi ngôn ngữ đều có tính quy ước.

Hai, ý thức liên văn hóa (intercultural awareness) tức ý thức về tính đặc thù của các nền văn hóa với những niềm tin, những thói quen, những chuẩn mực và những giá trị riêng, từ đó, một mặt, có khả năng giao tiếp với những người thuộc các nền văn hóa khác; mặt khác, trở thành cởi mở và bao dung hơn trước những cái mới, những cái khác và những sự dị biệt. Chỉ cần học cách xưng hô trong tiếng Việt, các em sẽ thấy ngay, so với tiếng Anh, quan hệ về xã hội cũng như các nguyên tắc lịch sự của người Việt Nam khác hẳn người nói tiếng Anh.

image


Ưu thế của hai loại ý thức này ở trẻ em song ngữ là điều dễ hiểu: Học hai ngôn ngữ cùng lúc là sống thường trực với việc phiên dịch và chuyển đổi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Đó cũng là cơ hội để các em phát triển nhận thức và khả năng so sánh về những đặc trưng riêng với những ưu và khuyết điểm riêng của từng ngôn ngữ và từng văn hóa.

So với những người học tiếng Việt như một ngoại ngữ hoặc một ngôn ngữ thứ hai, trẻ em song ngữ gốc Việt rõ ràng là có nhiều mặt mạnh:

Về ngữ âm, do được học tiếng Việt rất sớm từ gia đình, phần lớn các em có thể phát âm chính xác hầu hết các nguyên âm và phụ âm căn bản cũng như hầu hết các thanh điệu trong tiếng Việt. Quan sát nhiều học sinh trong các lớp tiếng Việt bậc tiểu học, kể cả lớp 1 và lớp 2, ở Úc, tôi nhận thấy một điều: trong khi phần lớn các em còn diễn đạt một cách khó khăn, chủ yếu do thiếu thốn từ vựng, dường như không em nào có cách nói lơ lớ như những người ngoại quốc mới học tiếng Việt. Đó là một nền tảng tuyệt hảo để tiến đến việc thụ đắc tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ nhất.

Về cú pháp, hầu hết các trẻ em song ngữ đều nói tiếng Việt khá đúng. Lỗi của các em chủ yếu nằm trong cách dùng từ, ví dụ, thường nói “cái áo té” (thay vì cái áo rơi hay rớt) hoặc “rửa đầu” (thay vì gội đầu), nhưng hiếm lắm mới có những em đặt tính từ trước danh từ như trong tiếng Anh.

image


Tuy nhiên, tất cả những mặt mạnh của các trẻ em song ngữ gốc Việt so với trẻ em ở Việt Nam hoặc với người ngoại quốc học tiếng Việt như một ngoại ngữ kể trên đều ở trong tình trạng đầy bất trắc. Tình trạng quân bình giữa tiếng Việt và tiếng Anh ở các em lúc nào cũng đối diện với nguy cơ bị phá vỡ. Trong thế phá vỡ ấy, tiếng Việt không những có nguy cơ trở thành thứ yếu mà còn có nguy cơ bị giảm trừ, cuối cùng, thành thụ động, nếu không nói là bị quên lãng. Những mặt mạnh ấy chỉ có thể được phát huy với một điều kiện: tiếng Việt của các em được tiếp tục duy trì và phát triển. (Còn tiếp một kỳ)


Nguyễn Hưng Quốc



[1] Trong tiếng Anh, đối với trường hợp trên, người ta gọi là EFL –English as a Foreign Language, với trường hợp dưới, ESL – English as a Second Language. Riêng ở Anh, Ireland và New Zealand, người ta thường dùng chữ ESOL – English for Speakers of Other Languages – Tiếng Anh cho những người nói các ngôn ngữ khác – cho cả hai trường hợp, bao gồm cả ESL lẫn EFL.

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.