Pages

Friday, July 29, 2011

Tại sao tôi thích học Tiếng Việt

image
Tác giả và anh trai khi mới đến Úc


Mặc dù sanh ra ở Sài Gòn và có ba má người Việt, nhưng trong phần lớn đời mình, tôi không biết nhiều về tiếng mẹ đẻ của mình.
Có nhiều lý do. Gia đình tôi rời đất nước khi tôi chỉ hai tuổi và sau một thời gian ở Mã Lai chúng tôi định cư ở Canberra (thủ đô Úc).
Cộng đồng Việt kiều ở thành phố Canberra nhỏ, không giống như Sydney hay Brisbane. Bất chấp điều đó và còn có nhiều sự thách thức khác, gia đình rất vui ở Canberra và biết ơn Úc Đại Lợi.

Ba má tôi không bao giờ quên quê hương, mà lúc đó – cách đây hơn 30 năm – họ nghĩ việc trở lại Việt Nam khó khăn như bước trên mặt trăng. Bởi vậy, ba má tôi đổ hết sức để xây dựng cuộc sống mới, nhất là cho hai đứa con trai của họ.
Cả ba má tôi và chính phủ Úc khi đó đều cho rằng, gia đình phải học tiếng Anh để có thể định cư thành công và hạnh phúc.

Sau khi học tiếng Anh ban đêm ở trường đào tạo, ba tôi đã tìm được việc ở sở điện lực Canberra tương đương với công việc ở Việt Nam trước 1975. Má tôi đã được tiếp xúc với hàng xóm và cộng đồng, giải thích tại sao mình đến Úc châu.
Tôi và anh tôi đã làm quen với bạn bè và học mỗi ngành học mà chúng tôi thích (nhưng toán thì khá nhất). Với tiếng Anh, ba má tôi hy vọng tương lai chúng tôi không bị kỳ thị vì quá khứ.

Ba má tôi yêu cầu mọi thành viên trong gia đình phải nói tiếng Anh. Điều này vừa có ích nhưng vừa có hại vì sau chỉ hai ba năm tôi gần như không biết tiếng Việt.
Còn nhớ khi nhỏ và khi có khách Việt Nam đến nhà, tôi hay chạy trốn, không dám ra chào khách và cảm thấy lúng túng và xấu hổ khi phải mở miệng. Lúc đó đối với tôi, tiếng Việt là một ngôn ngữ kinh hoàng.
Nín lặng

Khi 12 tuổi, tôi còn có thể nghe chút ít tiếng Việt nhưng ráng lắm mới nói được một vài từ. Hơn nữa lại còn không nói tên họ của mình rành.
Đến mức đấy thì khó đảo ngược được vì ba má tôi rất bận rộn trong việc mở lò bánh mì và phải làm suốt ngày đêm. Tôi cũng làm phụ ở tiệm khi không phải đi học và cho ba má nghỉ ngơi.

Ngoài việc ở chung một ngôi nhà, chúng tôi ít có thời giờ nói chuyện với nhau. Như vậy từ lúc đó tôi ở trong một hoàn cảnh kỳ dị: nói chuyện được với người Úc nhưng với người Việt thì tôi chỉ có sự nín lặng.
Vào năm 2000, tôi quyết định học tiếng Việt. Ba Má tôi đã về hưu và tôi vẫn còn ở nhà của ba má trong khi học tiến sĩ.

image
Tác giả từng viết hồi ký kể về lịch sử gia đình mình

Mỗi buổi sáng tôi đã thức sớm đi bộ với má và mang theo sách học. Vào mùa đông, dù thời tiết dưới năm độ, hai má con tôi vừa đi vừa nói, ‘à-nh-nhà’, ‘ánh-b-bánh’, ‘ùa-r-rùa’.... Chắc người băng qua đường thấy chúng tôi như vây, họ thấy kỳ lạ vô cùng.
Nhưng kỳ lạ hơn là khi tôi bắt đầu đi học.
Mỗi buổi sáng thứ bảy cộng đồng Việt kiều Canberra đã tổ chức trường học Tiếng Việt ở cậu lạc bộ Pháp cho trẻ em.
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên đến lớp học không có ba má dẫn đến như học trò khác và tôi cảm thấy quá căng thẳng. Thầy cô giáo biết tiếng Việt của tôi rất dở nhưng vẫn không cho vô lớp mẫu giáo.
Họ khuyên tôi gia nhập Lớp 1 để giảm bớt sự mắc cỡ. Có khoảng 20 học trò từ tám đến mười tuổi trong lớp.
Không những tôi lớn tuổi nhất trong trường mà còn lớn hơn cả anh chị đến rước trẻ em về. Đôi khi về tuổi, tôi không thua xa ba má của họ. Có lúc chúng tôi được học về Âm lịch, tôi cảm thấy cô đơn vì không có ai trong lớp cùng tuổi Tỵ và cũng không ai ở trong giáp (chu kỳ 12 năm) của tôi.
Có hai người trong lớp mà tôi còn nhớ rất rõ.
Huy (nó hay dùng tên Tiếng Anh ‘Hugh’) thông minh nhất trong lớp, mà cũng ồn ào và bất trị nhất. Đúng như vậy, Huy có nhiều bạn. Nó hay chọc ghẹo thầy giáo bằng tiếng Anh (thường là vì thầy trọc đầu) và không bị khiển trách vì tiếng Anh của thầy không rành bằng nó.

Có lúc tôi muốn bảo cho thầy biết, mà sợ làm vậy bị Huy và cả lớp ghét bỏ. Nhiều khi tôi ngờ Huy đã chọc ghẹo tôi bằng tiếng Việt mà tôi không có khả năng hiểu nó nói gì và phản ứng lại. Vì giỏi cả hai tiếng, nó là kẻ hay bắt nạt kinh khủng. Mặc dù đã qua hơn mười năm, nếu gặp Huy hôm nay tôi cũng rùng mình một chút.
Long là một đứa con trai nhỏ xíu và bạn thân và duy nhất của tôi ở trường. Nó hay đến lớp trễ vì không thức dậy kịp. Mọi người luôn luôn thấy áo ngủ của nó ở dưới cái áo vét tông và có một ngọn tóc không bao giờ nằm xuống.

Khi mọi người được ra ăn trưa và chơi, Long thường ngồi bên cạnh tôi. Nó chơi computer games và ăn hoa quả mà má nó cắt sẵn trong khi tôi đọc báo và uống cafe. Long hát líu lo liên tục, biết nhiều bài hát tiếng Anh và tiếng Việt. Có một lần nó hỏi câu mà tôi không biết trả lời: “Tại sao anh nói tiếng Việt kỳ cục quá?”
Cuối kỳ học, mỗi lớp phải chuẩn bị buổi biểu diễn cho Tết Trung Thu.
Tôi tập với các lớp bạn mà thấy kinh hoàng vô cùng khi nghĩ đứng trên sân khấu với cái đèn lồng hay quả bóng và hát cho cả cộng đồng Việt NamCanberra nghe. Vì thế hai tuần trước Tết Trung Thu, tôi quyết định không đi học nữa.

Trong thời gian tôi học ở đó, tiếng Việt của tôi tiến bộ nhiều. Về bài thi tôi không bao giờ được đứng thứ nhất, nhưng đôi khi được xếp thứ ba hay thứ tư. Theo tôi đó là đủ kiến thức để bắt đầu học tiếng Việt ở trường đại học.
Sau khi học tiếng Việt một năm ở trường đại học và có bằng tiến sĩ (về chính trị) tôi nghỉ học vài năm để tập trung lập nghiệp.

Trở lại

Năm nay tôi trở lại Việt Nam với vợ và có hai mục tiêu:

Viết một cuốn sách về người Việt hiện đại (bằng Tiếng Anh)
Cố học Tiếng Việt đến mức không thể quên được.

Hiện tại mục tiêu thứ nhì thấy khó nhất.
Vì sống ở Hà Nội, tôi phải làm quen nghe giọng Bắc, thấy người Hà Nội nói nhanh hơn người Nam và dùng nhiều từ mà tôi không biết như ‘chăn, điều hòa, hoa quả, thìa and tuyệt vời.’
Như nhiều người khác, tôi thấy việc học các loại dấu tiếng Việt thật là gian khổ.
Tôi không bị trật những từ nhạy cảm như hồi trước, ‘củ và cu’, ‘bưởi và b**i’ và ‘đủ và đ*’. Mà đôi khi người Việt không khoan dung, họ cảm thấy bị xúc phạm khi nghe tôi nói lầm ‘Phản Đinh Phụng’ hoặc là ‘Điền Biên Phú’.
Nói vậy cũng giống như tôi đã kêu tổng thống Hoa Kỳ ‘Porge Poshington’ hay gọi thành phố Úc ‘Smellbourne’.

"Tôi không đồng ý với những người nghĩ: ai không biết Tiếng Việt không phải là người Việt. Tuy nhiên học một chút thì có lợi nhiều. Vì vậy người nước ngoài và Việt kiều không nên sợ tiếng Việt."

Mặc dù thấy khó khăn, nhưng tôi vẫn rất thích học Tiếng Việt.
Học tiếng Việt cũng có những lợi ích đặc biệt. Nghe dấu thì khó, nhưng nghe được thì giúp ích không chỉ về ngôn ngữ thôi mà còn về âm nhạc.
Nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng những người mà biết tiếng du dương và có dấu như Tiếng Việt hay Tiếng Hoa có năng lực nghe và nhận ra nốt nhạc một cách hoàn hảo như Mozart gấp chín lần người nói tiếng bình thường.
Cũng như thế, tôi nghĩ người Việt có năng lực hát karaoke giỏi gấp 99 lần người Tây. Vợ tôi gốc Úc đang học tiếng Việt nhanh lắm. Một lý do là vì vợ tôi hay hát bài của Trịnh Công Sơn (nhất là những bài Khánh Ly hát).

Tiếng Việt có những đặc tính có khả năng cải thiện tiếng Anh của tôi.
Theo tôi tiếng Việt là một ngôn ngữ đầy chất thơ và người Việt biết quá nhiều bài thơ, tục ngữ và thành ngữ.
Nhiều khi người mới đến Việt Nam cảm thấy kinh ngạc khi nhìn thấy một xe máy chở năm người hay đồ đạc và con vật mà vốn phải dùng xe tải ở nước khác.
Tuy nhiên tôi thấy sửng sốt hơn khi nghe người Việt nhét trong một câu nói rất nhiều ý nghĩa, sự cảm động và hình tượng.
Ví dụ tôi đã hỏi em thiếu niên gầy nhom giao bình nước lên đến căn hộ của tôi, ‘Em giao bao nhiêu bình mỗi ngày?’
'Mùa hè năm ngoái giao 187 bình nước trong một ngày và 180 vào ngày sau, đến khắp mọi nơi ở Hà Nội.'

Tôi nói, ‘187 là số kinh khủng!’ và em trả lời, ‘Đó là số phận của tôi.’ Còn lâu nữa tôi mới rành Tiếng Việt như em giao nước. Tôi hy vọng, ‘lửa gần rơm ngày cũng bén’.
Điều hiển nhiên mà quan trọng nhất là khi biết tiếng Việt thì biết thêm về người Việt.
Tôi hiểu rằng đối với người Việt, việc đặt tên cũng mang nhiều ý nghĩa.
Thí dụ tôi có một người bác sanh ra ở miền quê, tên là ‘Biết’. Nhưng sau khi trưởng thành vào thành phố và thêm được học bác lấy tên ‘Nho’.

Tôi có một bạn ở Hà Nội sanh vào 1975 tên ‘Thắng’ và hai em họ sinh đôi vào thời Đổi Mới tên ‘Phú’ và ‘Quý’. Khi nào gặp bạn bè và người quen tôi hay suy nghĩ: Trung có trung thành không, Thành có thành thật không, Hiền có hiền lành không và luôn luôn thấy Cô Kiều thật tội nghiệp.

Do hành trình học Tiếng Việt này nên tôi được hiểu biết thêm về nguồn gốc, quê hương tôi, gia đình và bản thân.

Nhưng theo tôi người ta không cần một ngôn ngữ để xác định gốc gác của mình. Tôi không đồng ý với những người nghĩ: ai không biết Tiếng Việt không phải là người Việt.
Tuy nhiên học một chút thì có lợi nhiều. Vì vậy người nước ngoài và Việt kiều không nên sợ tiếng Việt.

Tiến sĩ Kim Huỳnh

Về tác giả: Kim Huỳnh là giảng viên về chính trị quốc tế ở Trường Đại Học Quốc Gia Úc. Tiến sĩ đã viết tiểu sử về cha mẹ mình, Where the Sea Takes Us: A Vietnamese-Australian Story (HarperCollins 2008) và là một trong hai chủ bút của cuốn sách The Culture Wars: Australian and American Politics in the 21st Century (Palgrave MacMillan 2009).

Tiến sĩ phải bỏ ra mấy ngày và cố gắng hết sức để viết bài này bằng Tiếng Việt và nhờ Giám đốc Hà Thị Thu Hương từ Trung tâm Integrated Culture and Language Studies (ICLS) sửa lại một chút trước khi xuất bản. Bài viết cũng đã được BBC biên tập lại. Tiến sĩ sẽ có buổi nói chuyện về ‘Cần biết gì trước khi đi du học?’ tại ICLS Thành phố Đà Nẵng vào ngày 14-08-2011.

Độc giả có thể đọc bài này bằng Tiếng Anh:

Why I like learning Vietnamese

A Việt Kiều reflects upon how he lost and then found his mother tongue
Despite being born in Saigon and having two Vietnamese parents, for most of my life I have known very little Vietnamese. There are several reasons for this. My family left Vietnam when I was only two. After a spending much of 1979 in a Malaysian refugee camp we resettled in Canberra (the capital of Australia) just before Christmas that year. Unlike in Sydney and Brisbane the Vietnamese community in Canberra is small and back then was close to non-existent. Despite this fact and many other challenges that we had to overcome during those early years, my family was content to be in Canberra and grateful for the second chance that Australia had provided us. My parents had not and could never forget their homeland but back then – more than 30 years ago – the prospect of returning to Vietnam was tantamount to setting foot on the moon. Ours was a one-way ticket. For this reason they devoted all of their energies to building a new life in their new country, especially for the sake of their two sons.
According to both my parents and the Australian government at the time, learning English was critical to our happy and successful resettlement. After studying in the evenings at a vocational college, my father was promoted from store man to senior designer at the Electricity Authority which was the same sort of position that he had had in Vietnam before 1975. My mother studied English during the day and as her proficiency improved she was able to converse with our neighbours and others in the community and tell them how we came to be in Australia. My older brother and I made friends at school and comfortably studied just about any subject (although maths was our strength). With English my parents hoped that our future would not be prejudiced by our past.
And so they strove to speak English at home instead of Vietnamese. This decision was vindicated by a great many advantages and opportunities, but there were also significant drawbacks. In particular, after just two or three years it was almost as if I had never known my mother tongue. As a child when we had the occasional Vietnamese visitor I would often run and hide. I could not bear the thought of greeting them and felt embarrassed and ashamed every time I opened my mouth. Back then, Vietnamese was a most frightening language.
By the time I was twelve I could understand a smidgen of Vietnamese when spoken by my parents but struggled to say more than a few words. As my uncle once observed, I could not even competently say my family name. By that stage it was difficult to turn things around. My parents were working day and night after having opened a bakery, and when I was not studying I also worked so that they could have a little rest. Although we were living under the same roof, there was very little opportunity for us to converse in any language whatsoever. I was thus in a curious place: I could communicate with so many Australians who did not look much like me and with whom I shared a limited history; but when it came to Vietnamese people there was only silence.
In 2000 I decided to learn Vietnamese. My parents had by that time retired and I was still living with them while undertaking my postgraduate studies. Every morning I would wake early to go walking with Mum, my Vietnamese exercise books in hand. Even in the winter when the temperature dropped to five degrees below freezing the both of us could be seen striding along while enunciating, ‘à-nh-nhà’, ‘ánh-b-bánh’, ‘ùa-r-rùa’…. No doubt it was a peculiar site and sound for other early morning exercisers.
Even more peculiar was my time at Vietnamese school. On Saturday mornings the Canberra Việt kiều (overseas Vietnamese) community organised Vietnamese classes at the Alliance Française. I was deeply nervous on my first day, but unlike the other students did not have my parents there to reassure me. The teachers knew that my Vietnamese was rudimentary but did not want to put me in kindergarten. Instead, it was decided that I should join first year so as to lessen the embarrassment and discomfort for everyone. There were about 20 students in the class between eight and ten years old. At 23 years of age I was not only older than all of the kids in the school but also older than the brothers and sisters who came to pick up their siblings in the afternoon. In many cases I wasn’t much younger than my classmates’ parents. During one of our first lessons we studied the lunar calendar and I felt isolated as the only person to be born in the year of the snake. There wasn’t even anyone born in my twelve year cycle.
Two classmates stick in my mind from that time. Huy (he preferred ‘Huy’) was the smartest in the class, but also the loudest and most unruly. As a consequence he was very popular. Huy brazenly teased our teacher in English (usually picking on his baldness) and did so without retribution because Huy’s English was far superior. There were times when I wanted to tell our teacher what was going on, but decided not to fearing reprisal from Huy and the rest of the class. I often suspected that Huy was mocking me in Vietnamese, but at that stage I could neither understand nor respond to his taunts. He was, because of his language proficiency, a terrible bully. And although ten years have passed, if I crossed paths with Huy today I could not help but shiver with fright.
The diminutive Long was my best and only friend. He was often late to school because he could not wake up in time. The collar from Long’s pyjama top often poked out from under his jacket and he had a cow lick that refused to lie down. During recess Long usually sat beside me playing computer games and eating fruit that his mother had cut for him while I read the paper and drank coffee. He was forever quietly tweeting like a bird and had an extensive repertoire of both Vietnamese and English songs. One day Long asked me a question to which I had no answer, ‘Why do you speak Vietnamese so funny?’
At the end of the term each class had to organise a performance for the Mid-Autumn festival. I rehearsed with my classmates but was mortified by the thought of standing on a stage in front of the Canberra Vietnamese community holding a little paper lantern or colourful balloon and singing children’s songs. And so two weeks before the festival, I decided to quit school. In the time that I was there my Vietnamese had improved markedly. I was never able to top the class in a test, but a few times managed third or fourth place. This was good enough, I thought, to start studying Vietnamese at university.
After completing a year of undergraduate Vietnamese and my PhD in politics I had to put my language studies aside and focus on establishing a career. This year, however, I have returned to Vietnam with two goals: i) to write a book about contemporary Vietnam (in English) and ii) to get my Vietnamese to a level such that I can be confident I will never lose it.
At this stage it looks like the second goal will be more difficult than the first. Because I’m living in Hanoi I have to become familiar with the northern accent which is sharper and seems to be enunciated much faster than the Southern yawl. Moreover, there are quite a few basic terms and words that remain regionally distinctive long after reunification: blanket, air conditioner, fruit, spoon and splendid. Like many others I still find tones and diacritics incessantly thorny. Fortunately I no longer fall into the pronunciation pitfalls that for the uninitiated and unalert can result in ‘old’ (cũ) coming out as ‘doodle’(cu), ‘pomelo’ (bưởi) turning into ‘prick’ (buồi) and even ‘enough’ (đủ) descending into ‘f*ck’ (đ*). But I still encounter situations in which less than forgiving Vietnamese are offended by my referring to ‘Phản Đinh Phụng’ instead of ‘Phan Đình Phùng’ or ‘Điền Biên Phú’ instead of ‘Điện Biên Phủ’. I suppose it is as if I had referred to the first President of America as Porge Poshington or the cultural and sporting capital of Australia as ‘Smellbourne’.
Yet despite all of these difficulties, I like learning Vietnamese. Learning Vietnamese, like learning any language, has certain benefits. My favourite author, Primo Levi, was very adept at languages. This helped him survive the Auschwitz concentration camps because, more than others, he understood the demands of his captors and the needs of his fellow inmates. After World War II Levi recognised and reflected upon the ongoing benefits of studying languages and other people. For him, having another language is like having a spare tyre or extra gear with which we can explore the deepest valleys and hightest peaks of foreign cultures. In so doing we can more accurately gauge our own society and psyche. Moreover the process of learning a new language invariably makes us more humble and attentive to others. Newcomers to a language cannot afford to be haughty or imperious, but rather must listen carefully and slowly think things through before opening their mouths. If only we could bring these qualities to all of our exchanges.
Learning Vietnamese also has specific advantages. Although identifying the tones is tricky, once you can do it there are distinct gains relating not only to language but also to music. Researchers have found that people who speak melodic and tonal languages like Vietnamese and Chinese are nine times more likely to have perfect pitch than those who do not. Similarly I suspect that Vietnamese are 99 times more likely than Westerners to be capable karaoke singers. My wife (who’s Australian born and bred) is learning Vietnamese very quickly in part because she enjoys listening to the songs of Trịnh Công Sơn (as sung by Khánh Ly of course).
In addition, I hope that studying Vietnamese serves to enhance my English. My sense is that Vietnamese is a very poetic and succinct language. Many visitors to Vietnam are amazed by the sight of a single motorbike transporting five people at once or perhaps the produce from an entire factory or farm. I am even more astonished by the immensity of meaning, emotion and imagery that many Vietnamese can cram into a single sentence or clause. For example I recently asked the skinny teenager who delivers the 20L bottles of drinking water to our apartment, ‘How many bottles do you deliver each day’. He informed me that last summer he carted around Hanoi a record 187 bottles in one day followed by 180 the next. When I exclaimed that, ‘187 is a frightful number!’ he concisely replied, ‘such is my fate, those are my numbers’.
All Vietnamese have on demand an extensive range of poems, proverbs and sayings. I particularly admire their propensity to ‘play with words’. For instance a tennis buddy recently asked me, ‘Does your wife play tennis?’. I said, ‘No, she’s not really into sports’. Straight away he came back with, ‘What you mean is that she’s not into “sports” but loves to get some “exercise”!’ At the same time he gyrated his hips and cackled over the fact that in Vietnamese ‘sport’ (thể thao), ‘exercise’ (thể dục) and ‘sexual desire’ (tình dục) share “root” words. I have a long way to go before I can play with words and do not know many proverbs, but here’s hoping that ‘the straw set next to the flame invariably catches alight.’
The obvious and perhaps most important point to make is that knowing Vietnamese helps one to know the Vietnamese better. Even understanding the meaning of a few names can open a window into the history and hopes of the people. I had an uncle, for instance, who was born in the countryside and was given the humble name of ‘Biết’ (to know). However when he grew up and moved to the city where he gained a little education he decided to change his name to ‘Nho’ (Confucian scholar). I also have a friend in Hanoi who was born in 1975 and so was named ‘Thắng’ (victory) and twin cousins ‘Phú’ and ‘Quý’ (wealth and high status) who greeted the world during the Vietnamese economic renovation. Often I find myself wondering—and this probably loses something in translation—how faithful is Faith? How honest is Earnest? How devout is Pious? And I always feel a little sorry for the star-crossed Kiều.
In this voyage to rediscover and improve my Vietnamese I am starting to know more about where I come from, my family and myself. Yet language is not everything or all-defining. I do not agree with those who think that anyone who is not fluent in Vietnamese is not really Vietnamese. Nonetheless, whether you are a foreigner or a Vietnamese expatriate, learning a little bit of the language helps, and it is certainly not something to be afraid of.
About the author: Kim Huỳnh is a lecturer in international relations at the Australian National University. Kim has written a biography of his parents, Where the Sea Takes Us: A Vietnamese-Australian Story (HarperCollins 2008) and is the co-editor of The Culture Wars: Australian and American Politics in the 21st Century (Palgrave MacMillan 2009).
Kim toiled for several days to write this article in Vietnamese (before translating it to English) and is grateful to his teacher Dr Hà Thị Thu Hương from Integrated Culture and Language Studies for her assistance. He will be speaking about ‘Truth, Lies and Television’ in Vietnam and the West at Gandida Bistro in Danang on 14 August 2011. Please contact the venue for reservations.

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.