'Lợi ích nhóm' giành
đặc quyền đặc lợi để khai thác các nguồn lực quốc gia
Năm 2016 là năm đặc
biệt với tôi vì nó đánh dấu 10 năm tôi trở về Việt Nam sau hơn mười mấy năm sống
ở nước ngoài và cũng là năm tôi qua tuổi 40, tuổi không còn trẻ nữa.
Bài viết này là quan
sát rất cá nhân của tôi, (và không có tính khoa học) về Việt Nam trong 10 năm
qua dưới con mắt của một người trở về, từ dân nghiên cứu chuyển sang làm kinh
doanh, nhân dịp sau đại hội Đảng và kết thúc một nhiệm kỳ của chính phủ.
Với tôi, Việt Nam của
thập kỷ 2006-2015 được khái quát bằng những điểm chính sau:
1) Sự lũng đoạn trầm
trọng của các công ty tư nhân trong việc cấu kết với các quan chức nhà nước,
cái mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gọi là “lợi ích nhóm”, còn kinh tế học thì
gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (cronyism);
2) Về phía khu vực
công, sự “đục khoét ngân sách” hay “đào mỏ ngân sách” được đẩy lên đến đỉnh điểm;
3) Thập kỷ này đánh
dấu sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục của nước nhà.
4) Mạng xã hội và
truyền thông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống chính trị Việt Nam.
5) Và cuối cùng, làn
sóng người có tiền và kiến thức ra đi ào ạt, lại một cuộc di cư nữa.
Vấn đề đầu tiên là sự
lũng đoạn trầm trọng của các tập đoàn tư nhân. Chưa bao giờ mà chủ nghĩa tư bản
thân hữu “cronyism” ở Việt Nam lại biểu hiện rõ như thế.
Chủ nghĩa tư bản
thân hữu hay “nhóm lợi ích” ở đây là sự kết hợp giữa công ty tư nhân và quan chức
nhà nước trong việc giành những đặc quyền đặc lợi để khai thác một nguồn lực gì
đó trên cơ chế bất bình đẳng, không cạnh tranh lành mạnh.
Câu nói mà bạn sẽ
nghe nhiều nhất trong 10 năm vừa qua sẽ là “chỗ này là của anh A, chỗ kia là của
chị B”.
Dường như không có
cuộc chơi kinh doanh lớn nào ở Việt Nam mà lại không có sự “bảo kê” của một
quan chức nào đó. Mọi quan hệ kinh tế sẽ được thay bởi các quan hệ chằng chịt
giữa chính trị và doanh nghiệp.
Điểm nguy hiểm nhất
của chủ nghĩa tư bản thân hữu là việc nó tạo ra một cuộc chơi bất bình đẳng mà
các công ty tư nhân khác không được cơ hội tham gia.
Qua đó các công ty
“nhóm lợi ích” được độc quyền khai thác nguồn tài nguyên hay một hoạt động nào
đó, và thường là gây thiệt hại cho người dùng.
Quan hệ chính trị trở
thành một 'ưu thế' để lấy các hợp đồng thầu và công trình lớn
Trong tài chính, đây
là cuộc chơi sử dụng quyền lực để mua lại các doanh nghiệp theo ý của mình.
Trong giáo dục, đó là việc trao cho một công ty giáo dục độc quyền cung cấp một
dịch vụ, thiết bị mà học sinh, phụ huynh phải mua mà không có sự lựa chọn khác.
Trong xây dựng cơ sở
hạ tầng, thì sử dụng quan hệ chính trị để lấy các hợp đồng thầu lớn mà không
thông qua đấu thầu công bằng và minh bạch.
Trong bất động sản,
đó là việc thay đổi quy hoạch tạo lợi thế cho doanh nghiệp hoặc việc lấy các vị
trí đắc địa qua những mối quan hệ bất bình đẳng.
Thay vì phát triển
theo một hướng minh bạch có lợi về dài hạn, Việt Nam dường như đang trượt ngã
trên con đường phát triển của những nước mà chủ nghĩa tư bản thân hữu đang lũng
đoạn mà chưa có lối ra như Philippines, các nước Mỹ Latin, Liên bang Nga, Trung
Cộng.
Và rồi sẽ có lúc nếu
không kiểm soát sớm thì doanh nghiệp sẽ là người điều khiển cuộc chơi chính trị
kinh tế, là kẻ tống người tiêu dùng vào tù, là kẻ bịt mồm nhà báo, v.v , và cuối
cùng là thế lực thực sự lũng đoạn nền chính trị, đưa người này lên, đưa kẻ khác
xuống.
Khi chính trị bị định
đoạt bằng đồng tiền và quan hệ thì chính trị đã trở thành “công cụ” của những
tay chơi tư bản lớn.
Và khi đó, nền kinh
tế tại Việt Nam sẽ trở thành hiện thân “chủ nghĩa tư bản” thời kỳ “mông muội”
và đáng “ghê tởm”nhất chứ không phải là chủ nghĩa xã hội như ước vọng của các
lãnh đạo Đảng Cộng sản.
Đào mỏ ngân sách
Vấn đề thứ hai, với
tôi, là việc “đào mỏ ngân sách” (budget mining) (mượn lời của Tiến sĩ Trần Vinh
Dự). Thập kỷ vừa qua tại Việt Nam được đánh dấu bằng việc “vung tay quá trán” của
chính quyền địa phương.
Chưa có thời kỳ nào
mà Việt Nam lại lắm công trình chùa chiền, công trình kỷ niệm, các dự án khu
hành chính ngốn hàng trăm, hàng ngàn tỷ như những năm vừa qua.
Các địa phương thi
nhau đục khoét ngân sách thông qua các dự án công. Không có cách nào rút tiền
ngân sách dễ dàng như rút tiền qua dự án công.
Một công trình, khu
tượng đài có giá trị đầu tư hàng trăm tỷ sẽ được giao cho một công ty xây dựng
“thân hữu”. Công ty xây dựng đó sẽ trở thành nhà thầu chính và qua đó có thể
chia sẻ lại quyền lợi cho những người có quyết định.
Điểm đáng kinh ngạc
và phẫn nộ là trong khi ai cũng biết mười mươi sự lãng phí và sự rút tiền trắng
trợn qua những dự án này thì chính quyền trung ương dường như lại không thể áp
đặt và quyết đoán ngăn chặn những quyết định này.
Theo tác giả, lá phiếu
tín nhiệm của quốc hội chỉ có ý nghĩa tượng trưng mà không có hình phạt
Tại sao các địa
phương lại có thể xin ngân sách nhà nước một cách tùy tiện như vậy. Sự nghịch
lý này hoàn toàn có thể giải thích được.
Chính quyền trung
ương sẽ được đánh giá tín nhiệm từ hai nguồn:
a) Các ủy viên trung
ương, mà đại diện là lãnh đạo các tỉnh/chính quyền địa phương
b) Đánh giá tín nhiệm
từ Quốc hội
Tuy nhiên, ủy viên
trung ương mới là người thực sự bầu ra bộ chính trị, thủ tướng, và thực tế nội
các. Trong khi đó, lá phiếu tín nhiệm của quốc hội chỉ có ý nghĩa tượng trưng
mà không có hình phạt.
Do đó, dường như phải
có sự thỏa hiệp giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương trong việc
đổi lấy lá phiểu ủng hộ, đặc biệt là giữa nhiệm kỳ.
Do vậy, để tránh việc
đầu tư vung vãi như trên thì cần phải thiết kế một cơ chế quy trách nhiệm cho
người lãnh đạo chính quyền địa phương và bảo đảm được tính độc lập trong việc
ra quyết định chi ngân sách của người đứng đầu chính quyền trung ương.
Mạng xã hội để xả uất
ức?
Từ những năm qua, mạng
xã hội và truyền thông đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống
kinh tế chính trị ở Việt Nam.
Xã hội Việt Nam 10
năm qua đã không còn là xã hội thụ động về truyền thông nữa. Sự phát triển của
mạng xã hội đã cho phép người dân tham gia vào đời sống chính trị kinh tế xã hội
một cách chủ động hơn rất nhiều.
Mạng xã hội đã chính
thức trở thành nơi để xả những uất ức phẫn nộ và bức bối của dân chúng. Nếu như
ở nước ngoài, người dân phản ứng với thay đổi bằng cách biểu tình thì ở Việt
Nam, người ta sẽ phản ứng bằng cách “biểu tình trên mạng”.
Mỗi một sự kiện có ảnh
hưởng lớn đến đời sống đều được đem ra bàn luận sôi nổi trên mạng xã hội. Ảnh
hưởng của mạng xã hội lớn đến mức có rất nhiều vụ việc sau đó bị thay đổi do dư
luận trên mạng xã hội đã dẫn dắt truyền thông chính thống, ví dụ như vụ chặt
cây xanh, máy tính bảng, tiếng Anh tích hợp, thực phẩm bẩn .v.v.
Quay lại chuyện
chính trị và truyền thông, dường như truyền thông và mạng xã hội đã loại thẳng
tay các lãnh đạo đương nhiệm của Bộ Giáo dục và Bộ Y tế, trong khi trái tim của
công luận dường như “tình trong như đã” với nguyên Bộ trưởng Bộ Giao Thông Đinh
La Thăng.
Xét công bằng mà nói
thì hai Bộ Y tế và Bộ Giáo dục - Đào tạo có những nỗ lực không hề nhỏ trong 5
năm vừa qua. Tuy nhiên nhìn cách họ ứng xử với truyền thông thì thấy hai bộ này
còn phải thay đổi rất nhiều.
Bộ Y tế ứng xử với
truyền thông thì hết sức vụng về, luôn đi chậm một bước, tuyên bố rất ngô nghê.
Còn Bộ Giáo dục thì luôn có vẻ ngạo mạn, hành xử đầy “cha chú” với truyền thông
và công luận với những chính sách và phát ngôn gây sốc như dự án 35 nghìn tỷ,
cuộc thi đại học như “đánh bạc”, và chẳng bao giờ có lời giải thích cầu thị đến
nơi đến chốn cả.
Trong khi đó, chỉ một
hình ảnh ông Đinh La Thăng đu dây xuống thị sát vụ tai nạn cũng đã đủ đốn ngã
hàng triệu con tim của người dân, và kế đó là việc ông là người duy nhất được bầu
thẳng vào Bộ Chính trị mà không có sự giới thiệu từ Bộ Chính trị trước đó.
Hộ chiếu một đất nước
khác
Đối với tôi, người từng
tham gia rất sâu vào giáo dục và cũng là người có hai đứa con đang độ tuổi đi học
cấp 1 và cấp 2 ở Việt Nam, giáo dục là điều tôi quan tâm nhất.
Với tôi, 10 năm qua
chứng kiến sự khủng hoảng toàn diện của nền giáo dục Việt Nam. Sang thế kỷ 21 rồi
mà giáo trình phổ thông và đại học của Việt Nam vẫn vô cùng lạc hậu hàng chục
năm so với nước ngoài.
Hàng trăm vụ scandal
liên quan đến nội dung giáo trình phổ thông đã xảy ra. Những gì con tôi được học
không khác gì những gì cha tôi và tôi đã từng được học cách đây hơn 30-50 năm.
Người thầy vẫn phải
dạy một cách giáo điều, khuôn mẫu, ngăn cản sáng tạo. Vẫn những câu chuyện lịch
sử áp đặt hoặc không được nhắc đến. Những cuộc cải cách giáo trình mãi không biết
đến bao giờ mới xong (trong khi đó nếu Bộ Giáo dục - Đào tạo trao quyền cho khối
tư nhân thì có khi chỉ một năm đã có tất cả giáo trình đầy đủ). Và vẫn những
loay hoay không lối thoát về chiến lược giáo dục.
Sắp hội nhập AEC và
TPP đến nơi rồi mà hơn 80% học sinh thi tốt nghiệp phổ thông trung học có điểm
tiếng Anh dưới 5 điểm trung bình.
Giáo dục Việt Nam vẫn
còn gặp nhiều vấn đề gây tranh cãi
Ấy thế mà những nhà
quản lý giáo dục vẫn “bình chân như vại”. Giáo dục song ngữ, cụ thể là tiếng
Anh, vẫn chưa bao giờ được coi là quan trọng nhất.
Việc dạy Toán và
Khoa học, nền tảng giáo dục cơ bản cho một đất nước “sáng tạo” lại luôn được dạy
một cách vô cùng lý thuyết và thiếu tính ứng dụng cao.
Cuộc khủng hoảng năm
2008 kéo dài với những bấp bênh bất ổn của nền kinh tế đã dẫn đến một làn sóng
ngầm nhưng rất rõ ràng là những ai có điều kiện đều cảm thấy cần phải mua “bảo
hiểm” cho gia đình mình bằng tấm hộ chiếu của một đất nước khác.
Nếu như năm 2006 khi
tôi trở về, câu chuyện trong giới doanh nghiệp và tài chính là đầu tư vào đâu,
thì những năm gần đây, câu chuyện thường trực mà tôi nghe là họ sẽ di cư đi
đâu, chuyển tiền ra nước ngoài thế nào.
Tại sao người ta lại
bỏ nước ra đi?
Người ta bỏ nước ra
đi vì họ thấy quá nhiều bất ổn: kinh tế bấp bênh, ô nhiễm môi trường trầm trọng,
thực phẩm độc hại tràn lan, và đặc biệt, là một nền giáo dục quá lạc hậu không
thể chuẩn bị cho con cái họ một tương lai trước một thế giới đầy bất định.
Cứ 10 chủ doanh nghiệp
mà tôi gặp thì ít nhất 3-4 người đã có thẻ thường trú nhân ở một nước tư bản, số
còn lại thì hơn một nửa cũng đang ngấp nghé chuẩn bị.
Sự khác biệt lớn nhất
của cuộc di cư lần này so với những cuộc di cư khác là cuộc di cư lần này không
hề vì ý thức hệ. Cuộc di cư lần này được những người tinh hoa nhất, thành đạt
nhất dẫn đầu, và được chuẩn bị vô cùng bài bản và công khai.
Họ ra đi mang theo số
lượng tiền bạc, trí tuệ khổng lồ. Một cuộc chảy máu chất xám và tiền lớn hơn tất
cả những cuộc di cư trước cộng lại.
(Còn với tôi, nếu
tôi có phải bỏ nước ra đi, thì lý do duy nhất là tôi không muốn con tôi sống với
những điều dối trá đang diễn ra.)
Sang năm 2016, tôi
thấy hơi lạc quan với những động thái mà Đảng Cộng sản đưa ra. Dường như những
nhà lãnh đạo đã cảm thấy một phần sức nóng bức xúc của công luận.
Tham nhũng được coi
là quốc nạn, những vụ bổ nhiệm lãnh đạo cao cấp dường như khá tích cực.
Những vụ luân chuyển
cán bộ cấp thành ủy đã mang hơi hướng của việc cải cách.
Một điểm tích cực
khác là dàn lãnh đạo khá trẻ của Đảng cho dù họ có là con ông cháu cha hay
chăng nữa.
Truyền thông và mạng
xã hội được coi trọng hơn rất nhiều. Quan chức giờ đã biết nhìn và hành động
theo phản ứng của dư luận, cho dù những việc đó có là “giả tạo” thì việc biết để
ý đến phản ứng của công luận đã là một bước tiến bộ rất đáng kể.
Tôi mong rằng sang
thập kỷ mới, chính phủ Việt Nam sẽ giải quyết được triệt để những vấn đề nêu
trên.
Những lãnh đạo mới
như ông Đinh La Thăng đã dễ dàng chiếm được tình cảm của người dân
Hãy trở thành một
chính phủ quyết đoán hơn, dùng được tầng lớp kỹ trị. Các quan chức phải chịu
trách nhiệm cá nhân cho các quyết sách của mình. Hãy biến Việt Nam trong những
năm tới thành một “Quốc gia Giáo dục – Education Nation” nơi mà việc học tiếng
Anh, Toán, Khoa học được coi trọng hàng đầu.
Chính phủ Việt Nam
cũng nên cởi mở hơn với những phản biện xã hội. Hãy coi phản biện xã hội là những
tấm gương lớn để soi lại mình.
Đừng chụp mũ và áp đặt
cho các phản biện xã hội là “diễn biến hòa bình” hay “các thế lực phản động”.
Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn tự làm mới mình trong mỗi lần sinh tử. Vậy hãy làm mới mình, hãy chấp
nhận thay đổi cho một đất nước tốt đẹp hơn.
Anh bạn thân của
tôi, một nhà kinh tế học nổi tiếng Việt Nam đã từng nói đầy cay đắng: Bi kịch và
nghịch lý lớn nhất của thể chế chính trị hiện giờ là nó biến những người hiền
hòa, những trí thức và doanh nhân an phận có trách nhiệm (như tính cách của dân
tộc Việt Nam) thành những người bất đồng.
Chúng tôi yêu tha
thiết đất nước này, và một cách nào đó, chúng tôi được hưởng lợi từ chế độ này.
Tuy nhiên, mong thể chế này hãy thay đổi tích cực để đừng biến những người yêu
nước (như chúng tôi), một ngày nào đó lại phải trở thành những người “bất đồng
chính kiến”.
* (Đầu đề mượn lời
thơ của Phạm Công Thiện. Bài viết có sử dụng các ý trao đổi của Vũ Thành Tự Anh
và Trần Vinh Dự).
Nguyễn Quốc Toàn
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.