Giáo sư sử học Peter
Zinoman
Giáo sư Tiến sĩ
Peter Zinoman của khoa Sử Đại học Berkeley mới đây đã được Quỹ Văn hóa Phan
Châu Trinh tại Việt Nam trao giải vì những đóng góp của ông vào việc phát triển
ngành Việt Nam học tại Hoa Kỳ.
Trong những năm qua,
nhiều sinh viên Berkeley gồm Trang Cao, Rebekah Linh Collins, Nu-Anh Trần, Alec
Holcombe, Martina Nguyễn, Ben Trần, Marguerite Bích Nguyễn, Kimberly Hoàng, Tường
Vũ đã bảo vệ luận án tiến sĩ với những đề tài liên quan đến Việt Nam, trong số
này nhiều người nay đang giảng dạy tại các đại học Mỹ. Kết quả đó cũng là do có
sự hướng dẫn và khuyến khích của Giáo sư Zinoman.
Là một học giả về Việt
Nam, Giáo sư là tác giả của tác phẩm Vietnamese Colonial Republican: the
political vision of Vu Trong Phung [Nxb ĐH California 2013] và Dumb
Luck, tức tiểu thuyết Số Đỏ cũng của Vũ Trọng Phụng đã được ông và vợ
là cô Nguyễn Nguyệt Cầm dịch sang Anh ngữ [Nxb ĐH Michigan 2002].
Ngoài việc giảng dạy,
ông cũng là chủ biên của tập san nghiên cứu Journal of Vietnamese Studies do
Đại học Berkeley phát hành.
Tập san Journal of
Vietnamese Studies do Đại học Berkeley phát hành
Từ khuôn viên trường,
tuần qua Giáo sư Peter Zinoman đã dành cho tôi một cuộc phỏng vấn về Việt Nam học
tại Hoa Kỳ.
Bùi Văn Phú: Trước
hết, chúc mừng Giáo sư vừa được trao Giải Phan Châu Trinh về những nỗ lực của
Giáo sư trong việc phát triển ngành Việt Nam học tại Hoa Kỳ. Thưa Giáo sư, những
lãnh vực nào bao gồm trong Việt Nam học?
Giáo sư Peter
Zinoman: Cám ơn anh. Việt Nam học là những học trình liên khoa. Hầu hết
nghiên cứu về Việt Nam hiện nay là trong khoa Sử và khoa Nhân chủng học, một số
ít hơn về chính trị học, văn chương, tôn giáo. Quan trọng nhất và có nhiều người
nghiên cứu nhất là về lịch sử và nhân chủng học.
Bùi Văn Phú: Sinh
viên ban thạc sĩ và tiến sĩ ở Berkeley chú trọng vào lãnh vực nào của Việt Nam?
Peter Zinoman: Hầu
hết sinh viên tại Đại học Berkeley là trong khoa Sử và tôi là giáo sư lịch sử
và là học giả duy nhất về Việt Nam ở đây. Như thế các công trình nghiên cứu
nguyên thuỷ cũng như hiện tại của tôi là về Việt Nam và các lớp học tôi dạy phần
lớn cũng là về Việt Nam. Có những giáo sư khác đã có bài viết dính dáng đến Việt
Nam hay dạy một lớp mà giáo trình có phần nhắc đến cuộc chiến Việt Nam hoặc một
chủ đề nào đó liên quan.
Đúng nghĩa về một học giả Việt Nam học thì tôi là người
duy nhất ở Berkeley. Nhiều lớp sử do tôi phụ trách chú trọng đến Việt Nam hơn
là ở những khoa khác.
Bùi Văn Phú: Việt
Nam học tại Đại học Berkeley đã được phát triển ra sao?
Peter Zinoman: Từ
ngày bắt đầu dạy ở Berkeley tôi đã trực tiếp hoặc gián tiếp bảo trợ nhiều luận
án thạc sĩ cũng như tiến sĩ trong các khoa chính trị học, văn chương đối chiếu,
hùng biện, khoa môi trường và quản lý chính sách. Vài luận án tôi đã bảo trợ
thuộc khoa Xã hội học, Thần học, Nhân chủng học hay từ khoa Kế hoạch đô thị và
khu vực, khoa Năng lượng và Tài nguyên thiên nhiên. Sinh viên ở rải rác trong
nhiều khoa khác nhau, tuy nhiên chủ yếu và đông nhất tại Đại học Berkeley là
trong khoa Sử.
Bùi Văn Phú: Theo
sự hiểu biết của Giáo sư, đại học Mỹ nào có chương trình Việt Nam học lớn mạnh
nhất?
Peter Zinoman: Đây
là một câu hỏi hơi khó trả lời. Nên đánh giá thế nào là lớn mạnh nhất.
Một cách
để đánh giá là số giáo sư chuyên ngành. Nếu căn cứ vào tiêu chí đó thì Berkeley
không lớn nhất bởi vì chỉ có tôi là học giả duy nhất. Có những đại học với hai
giáo sư, như U.C.L.A. có Nguyễn-Võ Thu Hương và George Dutton. Đại học U.C.
Riverside có đến ba học giả về Việt Nam là Giáo sư khoa Sử David Biggs, Giáo sư
Văn chương Mariam Lâm và Giáo sư về Phụ nữ học Lan Dương.
Bùi Văn Phú: Thế
còn ở Đại học Cornell hay Đại học Wisconsin thì sao?
Peter Zinoman: Đại
học Wisconsin không có ai chuyên về Việt Nam. Đại học Cornell có Giáo sư Keith
Taylor, là giáo sư cố vấn của tôi khi tôi còn là sinh viên. Hầu hết các nơi có
một hay hai giáo sư chuyên về Việt Nam. Đại học Washington có một giáo sư và một
quản thủ thư viện rất tốt với học vị tiến sĩ về sử Việt.
Nhưng không thể đánh
giá chương trình qua con số giáo sư. Thực ra, Đại học Berkeley là nơi có chương
trình Việt Nam học đứng đầu về phẩm cũng như về lượng với nhiều nghiên cứu sinh
về Việt Nam.
Bùi Văn Phú: Nguyên
do nào mà Đại học Berkeley thu hút sinh viên nghiên cứu về Việt Nam?
Peter Zinoman: Có
hai lý do. Trước hết, Đại học Berkeley là trường đứng đầu trong hệ thống Đại học
California. Hai là tiểu bang California có nhiều sinh viên gốc Việt vì thế
Berkeley thu hút họ.
Bùi Văn Phú: Trong
hai thập niên giảng dạy tại Berkeley, có nhiều sinh viên gốc Việt theo học các
lớp của Giáo sư không?
Peter Zinoman: Về
số sinh viên thạc sĩ hay tiến sĩ, tôi có thể nói đến hơn một nửa là người Mỹ gốc
Việt và con số này ngày một tăng và tỉ lệ cũng tăng. Khi tôi bắt đầu giảng dạy ở
đây năm 1995, lúc đó thực ra cũng có một nhóm nghiên cứu sinh về Việt Nam đang
đợi tôi, nhưng không có sinh viên Việt hay Mỹ gốc Việt. Bây giờ hầu hết những
sinh viên nghiên cứu về Việt Nam là người Mỹ gốc Việt.
Bùi Văn Phú: Vì
sao họ lại thích nghiên cứu lịch sử Việt Nam?
Peter Zinoman: Do
nhiều nguyên do khác nhau. Một số muốn tìm hiểu về Việt Nam thời Pháp thuộc hay
về giai đoạn sau Thế chiến thứ Hai. Nhưng cũng có khá đông muốn nghiên cứu về
miền Nam Việt Nam trong giai đoạn từ 1954 đến 1975, là thời gian mà cha mẹ của
các em đã sống qua, đã làm việc ở đó.
Khác biệt lớn nữa là
sinh viên gốc Việt không chỉ mang đến những đề tài nghiên cứu mà cả quan điểm
chính trị. Họ là người Mỹ gốc Việt, đem theo vào đại học những khuynh hướng
chính trị của cộng đồng và của các bậc phụ huynh. Nhiều sinh viên nhận thấy miền
Nam và dân chúng miền Nam được phản ảnh qua truyền thông và sách vở ở Mỹ là
không trung thực, hình ảnh tiêu biểu về cha mẹ của các em được đưa ra là không
công bằng. Vì thế các em muốn nghiên cứu và viết lịch sử kể lại một câu chuyện
khác hơn.
Giáo sư Olga Dror,
bên trái, giáo sư Peter Zinoman và nhà văn Nhã Ca trong buổi giới thiệu bản Anh
ngữ tác phẩm Giải khăn sô cho Huế tại Đại học Berkeley tháng 2/2015
Bùi Văn Phú: Để
tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài này làm sao những sinh viên này có thể tìm thấy
những gì còn lại của Việt Nam Cộng hòa?
Peter Zinoman: Thực
ra không phải là điều khó. Văn khố của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1954 đến 1975,
của cả nền Đệ nhất Cộng hòa dưới thời Ngô Đình Diệm và nền Đệ nhị Cộng hòa vẫn
tồn tại ở Thành phố Hồ Chí Minh. Văn khố này không mở ra hết, nhưng phần lớn đã
được mở ra cho các nhà nghiên cứu. Tôi có những sinh viên tìm đọc tài liệu ở đó
trong một, hai năm cho những đề tài nghiên cứu khác nhau. Dù không được tiếp cận
với mọi tài liệu, nhưng cũng tìm được nhiều.
Đó là nguồn tài liệu
lớn nhưng không phải là nguồn duy nhất. Ở nhiều tiểu bang như California,
Texas, Virginia và bên Úc, bên châu Âu là những nơi có đông người Việt từng sống
ở miền Nam trong giai đoạn đó thì đây là nguồn tài liệu tuyệt vời cho những
chuyện kể lịch sử (oral history). Những sinh viên của tôi đến từ San Jose, từ
Los Angeles dùng những nguồn tài liệu sống đó cho các bài viết. Ngoài ra tại
Hoa Kỳ cũng có nhiều thư viện, đặc biệt là thư viện ở Berkeley, Washington,
Cornell và Hawaii là kho tài liệu phong phú với những tạp chí, sách báo và ấn
phẩm cũ của miền Nam Việt Nam.
Bùi Văn Phú: Theo
Giáo sư, nghiên cứu về Việt Nam ngoài khó khăn trong tiếp cận với các văn khố ở
Sài Gòn và Hà Nội, thì có sự kiểm duyệt của nhà nước tại Việt Nam hay có trở ngại
nào khác?
Peter Zinoman: Tùy
vào sinh viên và dự án nghiên cứu. Về văn khố, như tôi đã nói là không hoàn
toàn mở đế tiếp cận với mọi thứ, vì thế sinh viên phải chú ý đến điều đó và những
thông tin tìm được có thể bị lệch lạc một cách nào đó. Tôi đã đến văn khố ở Việt
Nam làm việc trong nhiều năm và theo kinh nghiệm riêng thì căn bản là cần có thời
giờ. Nếu chỉ có hai tuần lễ thì sẽ không làm được gì. Nhưng nếu có 2 tháng, 6
tháng hay một đôi năm thì sẽ có nhiều cách để tiếp cận tài liệu. Có khi muốn
xem một tài liệu, yêu cầu cách này, họ nói không, nhưng xin cách khác có khi lại
được. Đôi khi một nhân viên văn khố làm việc ngày đó không cho tiếp cận, hôm
sau một người khác lại cho. Điều quan trọng nhất là thời giờ, cần phải có nhiều
thời gian cho những công trình nghiên cứu loại này.
Khó khăn khác là
ngôn ngữ. Đây là điểm mà sinh viên gốc Việt tại hải ngoại có lợi thế lớn nếu đã
biết tiếng Việt và là một thử thách cho những sinh viên không phải gốc Việt. Biết
tiếng Việt là một đòi hỏi rất quan trọng. Hai mươi lăm năm trước thì đó không
phải là vấn đề. Ngày nay không những các văn khố đã mở ra mà còn có những nguồn
tài liệu khác và sinh viên phải biết khai thác. Tiếng Việt là một ngôn ngữ khó
học cho người nước ngoài. Tôi có những sinh viên gốc Việt và sinh viên không phải
gốc Việt, tất cả rất cố gắng học tiếng Việt.
Bùi Văn Phú: Có
đề tài nào chưa được nghiên cứu nhiều trong lịch sử Việt Nam, về miền Bắc cũng
như miền Nam?
Peter Zinoman: Có
nhiều đề tài thích thú cho cả hai miền. Lịch sử huyền bí của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa với đời sống xã hội, văn hóa, kinh tế. Chúng ta chưa biết được xã hội miền
Bắc được tổ chức ra sao để có thể động viên chiến đấu trong một thời gian quá
lâu.
Chúng ta cũng không biết nhiều về quân sử miền Bắc, như sức mạnh quân sự
được xây dựng trên nền tảng kinh tế, xã hội và văn hoá ra sao. Những năm đầu của
chế độ miền Bắc là những đề tài cần được nghiên cứu.
Với Việt Nam Cộng
hòa, những nghiên cứu trong giai đoạn này luôn chú trọng nhiều đến sự can dự của
người Mỹ và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này. Nhưng cũng
chưa có nhiều nghiên cứu về lịch sử kinh tế của miền Nam, như về chính trị, văn
hóa và xã hội để hiểu vì sao miền Nam Việt Nam đã không thể sống còn. Theo tôi
nghiên cứu và tìm hiểu những đề tài đó rất là quan trọng.
Giáo sư Peter
Zinoman nói chuyện về quan điểm chính trị của nhà văn Vũ Trọng Phụng, Đại học
Berkeley tháng 4/2014
Bùi Văn Phú: Giáo
sư đã có những nghiên cứu về một vài nhân vật người Việt, chẳng hạn như về Vũ
Trọng Phụng. Trong một dịp nói chuyện về tác giả này, Giáo sư có đưa ra nhận định
Vũ Trọng Phụng là người cộng hòa đầu tiên. Giáo sư có thể giải thích rõ hơn về
nhân vật này trong khung cảnh chính trị Việt Nam của thập niên 1930 và 1940,
nhà văn đó có là người cộng hòa như ở Mỹ?
Peter Zinoman: Tôi
không nhận định Vũ Trọng Phụng là một người cộng hòa theo nghĩa như là người Mỹ
theo Đảng Cộng hòa. Đó là người cộng hòa khác. Cộng hòa ở đây với “chữ c không
viết hoa”. Tôi đã mô tả Vũ Trọng Phụng như là một người cộng hòa theo ý nghĩa của
chủ thuyết cộng hòa Pháp. Đó là truyền thống chính trị ở thế kỷ 18 đã dẫn đến
cuộc cách mạng Pháp. Với niềm tin vào một quốc gia không bị cai trị bởi một thể
chế quân chủ, không bởi một giáo hội, nhưng là một đất nước của dân, do dân và
vì dân; với tự do, công bình, bác ái là những giá trị tất yếu cho một quốc gia
tiên tiến. Truyền thống cộng hòa này đã góp phần cho cuộc Cách mạng Pháp và tạo
nên một xã hội dân sự dân chủ, đưa đến những thăng tiến về Giáo dục và khoa học.
Trong thời Pháp thuộc,
nhiều trí thức Việt cũng bị tác động mạnh bởi truyền thống này và họ nhận ra rằng
chính quyền thuộc địa Pháp không muốn thực hiện những lý tưởng cộng hòa.
Nhưng họ hy vọng chế
độ thuộc địa sẽ bị thay đổi, hay có thể bị lật đổ, và những lý tưởng cộng hòa
có thể đạt được ở Việt Nam.
Những trí thức này
khác với người cộng sản. Người cộng sản cũng nghĩ rằng chính quyền thuộc địa có
thể bị lật đổ và một thể chế khác được thay vào đó. Nhưng chủ nghĩa cộng sản thì
khác với lý tưởng cộng hòa. Vì thế qua những tác phẩm của Vũ Trong Phụng tôi
xem ông như là một người đã theo đuổi và ủng hộ lý tưởng cộng hòa vào thời điểm
đó.
Bùi Văn Phú: Trong
lãnh vực văn chương, theo Giáo sư phong trào Nhân Văn Giai phẩm đã được nghiên
cứu đầy đủ chưa?
Peter Zinoman: Tôi
không nghĩ phong trào này đã được nghiên cứu đầy đủ. Vẫn còn nhiều đề tài liên
quan cần được nghiên cứu.
Bùi Văn Phú: Thế
còn Tự lực Văn đoàn?
Peter Zinoman: Nhiều
đề tài về nhóm này cũng cần được nghiên cứu. Tôi có một cựu sinh viên là
Martina Nguyễn, hiện giảng dạy tại Đại học Baruch ở New York, đã bảo vệ luận án
tiến sĩ về Tự lực Văn đoàn (2013), đặc biệt là về khuynh hướng chính trị của
nhóm. Một phần của luận án sắp được xuất bản và cô cũng đang viết sách về cùng
đề tài.
Bùi Văn Phú: Vì
quan điểm chính trị của Hà Nội, trong quá khứ sinh viên và học giả tại Việt Nam
đã không được phép nghiên cứu về Tự lực Văn đoàn. Ngày nay có những nghiên cứu
nào tại Việt Nam về nhóm này không?
Peter Zinoman: Học
giả ở Việt Nam từ cuối thập niên 1980 đầu thập niên 1990 đã được phép nghiên cứu
về Tự lực Văn đoàn. Hầu hết những tác phẩm của nhóm cũng đã được tái bản ở Việt
Nam. Từ đó đến nay đã có nhiều luận án thạc sĩ và tiến sĩ ở Việt Nam về nhóm
này, về Nhất Linh, Thạch Lam v.v… Sinh viên và học giả được phép nghiên cứu,
nhưng điều tôi không thấy là những suy nghĩ mới về nhóm như về khuynh hướng
chính trị. Ở Việt Nam, viết về văn đoàn này thì được phép, cũng như viết về Vũ
Trọng Phụng, nhưng không được giải thích khác đi về quan điểm chính trị của
nhóm như bạn muốn. Vẫn có kiểm duyệt và có áp lực phải đi theo quan điểm chính
thống. Nhìn chung đã có thay đổi, tốt hơn là thời trước đổi mới, nhưng vẫn còn
những tiến bộ khác có thể làm được.
Bùi Văn Phú: Về
trào lưu văn chương thời đổi mới và cởi trói văn nghệ vào cuối thập niên 1980 với
Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Mạnh Hảo mà Giáo sư và
cô Nguyễn Nguyệt Cầm đã có dịch nhiều sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng
Anh. Giáo sư có nghĩ là sẽ có một trào lưu cởi mở như thế nữa không?
Peter Zinoman: Đây
là một câu chuyện phức tạp. Sự cởi mở bùng lên bắt đầu từ năm 1987, 1988 nhưng
rồi bị đóng lại vào năm 1990, 1991. Những tác phẩm giá trị thời “Văn chương Đổi
mới” của Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp v.v… ra đời vào lúc đó.
Nhưng rồi điều gì đã xảy đến với những nhà văn này. Bảo Ninh chẳng viết được
thêm tác phẩm nào, Nguyễn Huy Thiệp tiếp tục viết nhưng những sáng tác của ông
không chuyên chở nhiều ý nghĩa như trước. Còn Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài
thì phải sống lưu vong. Theo tôi thì áp lực chính trị đã tiêu hủy trào lưu đó
và đã không có một làn sóng như thế nữa.
Bùi Văn Phú: Giáo
sư đã bắt nghiên cứu về Việt Nam từ giữa thập niên 1980 khi là sinh viên ở Đại
học Tufts. Nguyên do nào khiến Giáo sư đã chú ý đến Việt Nam?
Peter Zinoman: Tôi
đã chú ý đến Việt Nam từ trước đó bởi vì bố tôi là nhà ngoại giao công tác ở
Đông Nam Á. Tôi sinh ra ở Thái Lan, học cấp 3 ở Malaysia, vì thế tôi thích Đông
Nam Á. Khi tôi tốt nghiệp Đại học Tufts năm 1987 thì chính sách đổi mới cũng vừa
được bắt đầu. Ở thời điểm đó Việt Nam đã cấm cửa không cho người Mỹ vào hơn 10
năm, riêng miền Bắc thì đã hơn 30 năm. Vì thế tôi nghĩ đây là cơ hội cho một
làn sóng tiên phong những học giả đến Việt Nam để tìm hiểu xem nơi này ra sao.
Bùi Văn Phú: Giáo
sư đến Việt Nam lần đầu tiên là khi nào?
Peter Zinoman: Vào
năm 1989 khi tôi là một sinh viên ban tiến sĩ đến học hai tháng ở Đại học Cần
Thơ.
Bùi Văn Phú: Chắc
khi đó là khoảng thời gian còn có nhiều khó khăn cho một người Mỹ ở Việt Nam?
Peter Zinoman: Năm
1989 là quãng thời gian rất khác. Cứ như là mình đi ngược lại thời gian. Việt
Nam khi đó còn rất kém phát triển, Sài Gòn có rất ít xe ô-tô. Ở Cần Thơ khi tôi
đi bộ ra đường thì có đám trẻ nhỏ tò mò đi theo vì các em chưa bao giờ thấy người
da trắng, và dân chúng gọi tôi là “Liên Xô”. Thời đó điên loạn nhưng đó là thời
gian thật tuyệt vời đối với tôi bởi vì nó rất là khác ngày nay.
Bùi Văn Phú: Có
điều gì Giáo sư muốn nói thêm về Việt Nam học tại Hoa Kỳ không?
Peter Zinoman: Mười
năm trước chúng tôi cho ra đời tạp chí Journal of Vietnamese Studies, như
thế cho thấy Đại học Berkeley đã đưa Việt Nam học lên tầm thật sự quan trọng.
Bùi Văn Phú
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.