
Thay vì chỉ tập
trung vào những khuôn mẫu quen thuộc, loạt bài sẽ quy tụ tiếng nói của các học
giả và trí thức trong và ngoài nước, phản ánh những cách hiểu khác nhau về lịch
sử Việt Nam, chiến tranh, hòa bình, ký ức, và thân phận con người - bao gồm cả
cộng đồng người Việt hải ngoại.
Năm thứ 50 lại
lặp lại như năm thứ 49, 48, và như bao năm trước có khác chăng là trên
một quy mô rộng lớn hơn, bất kể thuộc về phe nào trong cuộc chiến
huynh đệ năm xưa. Và sự lặp lại ấy vẫn sẽ tiếp diễn trong những năm
tới, khi chúng ta ngày càng chìm sâu hơn vào vũng lầy lịch sử do
chính mình tạo ra một thứ lịch sử được tạo dựng bằng những khuôn
mẫu trắng- đen cứng nhắc, bị nhào nặn bởi những ý thức hệ và nỗi bất an đầy
nghi kỵ, thiếu vắng tính trung thực và sự đa chiều cần thiết để có
thể hiểu một cách trọn vẹn các sắc thái và tính phức tạp vô tận của quá
khứ.
Năm mươi năm sau khi
chiến tranh kết thúc, bất kể có bao nhiêu lễ hội chiến thắng hay bao nhiêu nghi
lễ tưởng niệm, nếu chúng ta không thể hòa giải được với chính lịch sử của mình,
thì chúng ta cũng khó lòng hòa giải được với nhau.
Vậy thì, sau nửa thế kỷ, điều quan trọng nhất chúng ta cần tự hỏi không chỉ là chiến tranh đã kết thúc ra sao, mà còn là: chúng ta đã, đang và sẽ hiểu và tiếp nhận lịch sử Việt Nam, lịch sử Chiến tranh Việt Nam, và chính thân phận con người Việt Nam như thế nào?
Nhìn từ trong:
một lịch sử bị lược giản
Từ lâu, lịch sử đã
được định hình như một đặc quyền xa xỉ một câu chuyện được soạn dựng bởi những
kẻ chiến thắng và những người nắm quyền lực. Tại Việt Nam, kể từ ngày 30 tháng
4 năm 1975, khi đất nước được thống nhất về mặt địa lý và chính trị, lịch sử
cũng bị định hình lại dưới một trật tự duy nhất một trật tự chịu sự kiểm soát của
đảng và nhà nước cộng sản. Kể từ đó, lịch sử chính thống đã nghiêng hẳn về việc
phản ánh và bảo vệ quan điểm, lợi ích và tính chính danh của chính thể ấy,
hơn là thể hiện tính đa diện, đa chiều vốn có của lịch sử dân tộc. Giới viết sử
từ các nhà nghiên cứu, biên khảo hàng đầu cho đến những người làm sử ở cấp cơ sở
từ lâu đã bị kìm hãm trong khuôn khổ định sẵn, buộc họ phải tự giới hạn mình,
không thể lên tiếng một cách trung thực và đầy đủ về những điều cần được nói.
Kết quả là, toàn bộ
tiến trình lịch sử Việt Nam đã bị giản lược một cách cực đoan đóng khung trong
một hệ thống kể chuyện mang tính huyền thoại về những cuộc chiến tranh chống
ngoại xâm. Trong hệ hình ấy, cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị tái định nghĩa
hoàn toàn thành một cuộc kháng chiến chống ngoại xâm một cuộc "chống Mỹ cứu
nước" dù rằng phần lớn những người trực tiếp tham gia hay bị ảnh hưởng, từ
giới lãnh đạo đến binh lính và thường dân, đều là người Việt và mang cùng một
dòng máu.
Chính lối kể đó khiến
lịch sử bị sử dụng như một thứ công cụ chính trị để cai trị, thay vì là
một không gian đối thoại trung thực với quá khứ và con người. Nó làm lu mờ những
sắc thái, những mâu thuẫn nội tại, và cả những khát vọng bất đồng trong lòng một
dân tộc từng và vẫn tiếp tục bị chia cắt.
Vì thế, những sự kiện
và hiện thực lịch sử từ triều đại Gia Long, cuộc Cải cách ruộng đất, đến phong
trào Nhân văn Giai phẩm đều bị bóp méo hoặc xuyên tạc nhằm phục vụ một hệ tư tưởng
đơn tuyến. Những bậc tiền nhân có công với đất nước như Phan Châu Trinh, Nguyễn
Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nhất Linh bị làm lu mờ, gạt khỏi chính sử, nhường chỗ
cho những nhân vật được tô vẽ hoặc huyền thoại hóa như Võ Thị Sáu hay Lê Văn
Tám những biểu tượng cách mạng được kỳ công nhào nặn nhiều hơn là được ghi
chép trung thực.
Chính thể Việt Nam Cộng
hòa cùng với hàng triệu con người từng là công dân dưới thể chế đó bị gán cho
cái tên "ngụy quân, ngụy quyền" như một tội danh chính trị phản dân tộc,
phản tổ quốc. Lá cờ vàng ba sọc đỏ từng là biểu tượng của một quốc gia, một nền
cộng hòa, một giai đoạn lịch sử bị tuyên truyền như một hình ảnh cần phải ruồng
bỏ, xóa sạch, bất chấp chiều sâu và sự phức tạp của nó trong ký ức tập thể.
Các sản phẩm văn hóa
từ âm nhạc đến văn chương miền Nam bị định danh là "đồi trụy,"
"phản cách mạng," và bị cấm đoán, thiêu hủy. Những câu chuyện về tù cải
tạo, về các cuộc vượt biên, vượt biển của hàng triệu người, và cả lịch sử của cộng
đồng người Việt hải ngoại tất cả bị làm lu mờ, tái định nghĩa, hoặc bị đẩy ra
bên lề dòng chính sử Việt Nam.
Đó không chỉ là sự
lãng quên có chủ đích mà là một nỗ lực có hệ thống nhằm tái cấu trúc ký ức, áp
đặt một bản tường thuật duy nhất và xóa nhòa mọi vết tích của một lịch sử phức
hợp và đa chiều. Và chính sự giản lược này khiến chúng ta, nhiều thập niên sau
khi chiến tranh kết thúc, vẫn tiếp tục lặp lại những khuôn mẫu cũ ca tụng, kỳ
thị, hoặc im lặng thay vì đối diện với sự phức tạp và nhân tính trong lịch sử của
chính mình.
Nhìn từ ngoài: lịch
sử bị giản lược, ký ức bị thao túng
Nếu lịch sử ở Việt
Nam là lịch sử của người chiến thắng, thì ở phương Tây đặc biệt là Hoa Kỳ lịch
sử lại là sản phẩm của những người nắm giữ quyền lực, được viết bằng Anh ngữ để
phục vụ cho những nhu cầu và khủng hoảng nội tại của nước Mỹ hơn là để hiểu cho
đúng về Việt Nam. Giới học giả Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm đến Việt Nam từ thập
niên 1950 và nhiều hơn nữa khi Mỹ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh vào giữa
thập niên 1960. Trong bối cảnh một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cộng hưởng với
Chiến tranh Lạnh và sự hiện diện ngày càng sâu rộng của người Mỹ tại Việt Nam,
những công trình nghiên cứu ban đầu chủ yếu nhằm lý giải Việt Nam cho người Mỹ một
công chúng vốn ít biết đến đất nước này và thường chẳng hình dung nổi Việt Nam
nằm ở đâu trên bản đồ.
Khi chiến tranh leo
thang và phong trào phản chiến bùng nổ, thế hệ học giả Mỹ đầu tiên nghiên cứu về
Việt Nam, tiêu biểu như George Kahin, bắt đầu thể hiện rõ thiên hướng chính trị
và cảm xúc cá nhân, phần nhiều chịu ảnh hưởng từ thực tại xã hội ở Hoa Kỳ hơn
là thực tại tại Việt Nam. Họ tập trung nghiên cứu phong trào cộng sản Việt Nam
như là lực lượng duy nhất mang sức mạnh, tính chính danh và khả năng thắng cuộc,
từ đó vô tình (hoặc cố ý) loại bỏ các chủ thể khác khỏi dòng chính sử.
Dù với mong muốn tiếp cận cuộc chiến Việt Nam từ góc nhìn "người Việt," cách tiếp cận này lại mang tính chọn lọc rất cao, dẫn đến sự giản lược và lệch lạc trong việc nhìn nhận bản chất đa chiều, phức tạp và đầy mâu thuẫn của cuộc chiến. David Marr là ví dụ tiêu biểu: thay vì bàn trực diện về vai trò của các nhà dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản, ông lại hòa trộn hay làm lu mờ chủ nghĩa dân tộc trong một tiến trình mang tính tất định luận lịch sử, nơi mà các trí thức–cán bộ Marxist–Leninist trở thành trung tâm của câu chuyện cách mạng.
Với định hướng như vậy,
phần lớn các học giả thời kỳ đó vốn không biết tiếng Việt chủ yếu dựa vào tư liệu
bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và đặc biệt là các ấn phẩm tuyên truyền của chính
quyền Hà Nội, điển hình là các xuất bản của Nhà xuất bản Ngoại văn (The Foreign
Languages Publishing House). Đây là cơ quan xuất bản do Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa thành lập và điều hành, với mục đích đưa tiếng nói của chính phủ cộng sản
ra quốc tế, phản bác diễn ngôn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, và xây dựng hình ảnh
miền Bắc như một chính thể chính danh và có đạo lý. Những tác phẩm như Ho Chi
Minh: Selected Writings (1920–1969) hay Trường Chinh: Selected Writings là những
ví dụ tiêu biểu được biên soạn cẩn thận để phục vụ giới trí thức cánh tả và
phong trào phản chiến quốc tế.
Dù khai thác được
nhiều dữ liệu, phần lớn các công trình này vẫn dựa trên một giả định có tính
"minh định" rằng chiến thắng của cộng sản là tất yếu, là sự tiếp nối
của truyền thống chống ngoại xâm hàng ngàn năm. Họ quên rằng, ngoài những người
Việt thắng cuộc, còn có hàng triệu người Việt thua cuộc và không vì thua cuộc
mà họ thiếu chính danh, ý chí hay lòng yêu nước.
Chính sự thiên lệch
đó đã khiến lịch sử chiến tranh Việt Nam, dù ở Hà Nội hay Washington, trở thành
một câu chuyện trắng–đen, chính–tà. Những nhân vật được khắc họa đậm nét vẫn là
Kennedy, Johnson, Nixon, Kissinger ở phía Mỹ; Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê
Duẩn, Lê Đức Thọ ở phía cộng sản. Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, nếu có nhắc
đến, thì cũng chỉ như những nhân vật phụ bị biếm họa, mang dáng dấp bù nhìn hoặc
thất bại.
Trong nỗ lực lý giải
sự thất bại của Hoa Kỳ, giới học giả Mỹ vô tình (hoặc hữu ý) đã áp đặt lên đồng
minh của họ Việt Nam Cộng hòa những nhãn mô tả như "puppet" (bù
nhìn), "corrupt" (tham nhũng), "illegitimate" (không chính
danh), từ đó xây dựng một lập luận rằng: lẽ ra Mỹ không nên can dự vào Việt
Nam, hoặc nếu có, thì đã chọn nhầm phía.
Với nhãn quan đó, trọng
tâm nghiên cứu được đặt vào các quyết sách chính trị và quân sự. Vì vậy, thảm
sát Mỹ Lai được phân tích cặn kẽ trong sách sử và truyền thông dòng
chính, nhưng thảm sát ở Huế thì bị bỏ quên. Những phong trào phản
chiến và chống đàn áp ở miền Nam được phơi bày, nhưng đàn áp ở miền Bắc thì bị
lờ đi. Từ đó, tất cả những khía cạnh không phù hợp với một tường thuật nhị
nguyên đều bị xem là thứ yếu và bị gạt ra bên lề.
Quan điểm lịch sử ấy
dần thấm sàn các ngành nghiên cứu khác, từ nhân học đến khoa học chính trị, và
cả nghiên cứu Người Mỹ gốc Á. Lịch sử Việt Nam trở thành công cụ để hiểu về Hoa
Kỳ để phản tư, để phê phán chính sách, để chữa lành vết thương của người Mỹ,
và để hòa giải với Việt Nam thay vì là một nỗ lực để hiểu về chính người
Việt Nam. Việt Nam trở thành một đối tượng nghiên cứu nhằm hiểu và phê phán nước
Mỹ và những thất bại của nó.
Chỉ trong khoảng 15–20 năm gần đây, một thế hệ học giả mới nhiều người trong số đó là người Việt ở hải ngoại cũng như trong nước, biết tiếng Việt, hiểu văn hóa Việt mới bắt đầu tìm mò, viết lại, ráp lại những mảnh lịch sử bị từ chối. Kết quả là những nghiên cứu sâu sắc hơn về Điện Biên Phủ, về Ngô Đình Diệm, về chủ cộng sản, về chủ nghĩa cộng hòa, về Việt Nam Cộng hòa, về người Việt hải ngoại, cũng như những phức tạp chính trị–xã hội của miền Bắc như phong trào Nhân văn Giai phẩm, Cải cách ruộng đất, các cuộc thanh trừng nội bộ, Tết Mậu Thân, Hòa đàm Paris và Chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu phá vỡ thế độc thoại của lịch sử.
Lịch sử không chỉ là
chiến tranh và ký ức chiến tranh
Lịch sử Việt Nam – lịch
sử của con người Việt Nam – và cụ thể là lịch sử cuộc Chiến tranh Việt Nam,
không thể và không nên bị gói gọn trong kết cục thắng hay thua. Để có cái nhìn
đầy đủ và trung thực hơn, chúng ta cần mở rộng khái niệm lịch sử thông qua những
nỗ lực nghiên cứu sâu rộng, nhằm phản ánh chính xác hơn tính đa dạng, đa chiều
và phức tạp của xã hội và con người. Trách nhiệm ấy không chỉ thuộc về những
người viết sử, mà còn thuộc về từng công dân có ý thức, những người biết đặt
câu hỏi: Vì sao lịch sử được kể như vậy? Vì sao có những yếu tố, nhân vật được
nhắc đến trong khi những yếu tố và con người khác bị loại bỏ khỏi dòng chính?
Khi nhận thức được
điều đó, ta sẽ hiểu rằng lịch sử Việt Nam không thể chỉ là lịch sử của một hay
nhiều cuộc chiến, không chỉ là sự đối đầu trắng-đen giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Trong đó, sự hiện diện của người Mỹ, người Hàn, người Úc… phải được đặt song
song với sự hiện diện của chuyên gia, cố vấn, và quân nhân Trung cộng hay Liên
Xô. Rằng giới lãnh đạo – dù thuộc bên nào – không chỉ là những biểu tượng của
quyền lực mà còn là những con người với đầy đủ yêu thương, giằng xé, và cả tầm
nhìn riêng dành cho đất nước. Rằng những người lính – dù là lính Mỹ, bộ đội miền
Bắc hay quân lực Việt Nam Cộng hòa – đều mang trên mình những nỗi niềm, nỗi sợ,
nỗi nhớ, và khát khao được sống, được trở về.
Ta cũng phải nhìn nhận rằng trong chiến tranh, không chỉ có đạn bom và chiến trường, mà còn có cả một đời sống xã hội hiện thực – nơi một học sinh đang tuổi mộng mơ hôm nay, ngày mai có thể trở thành một trong hàng ngàn thi thể lạnh lẽo trên chiến trường. Rằng trong lòng những xã hội ấy, từ Bắc đến Nam, tồn tại những tiếng nói riêng biệt thể hiện qua thơ văn, phim ảnh, âm nhạc và hoạt động xã hội dân sự. Qua đó, chúng ta thấy được những tương đồng, dị biệt – thấy được rằng tự do ngôn luận vốn đã là một điều kiện mong manh ngay từ thời Nhân văn Giai phẩm, và rằng nếu không có một giai đoạn Việt Nam Cộng hòa, dù chỉ tồn tại 20 năm, thì có lẽ đã không có một Trịnh Công Sơn với những bản tình ca hay ca khúc da vàng, hay một Văn Cao được nhớ đến dù là tác giả quốc ca ngày nay.
Những lịch sử đó
không thể bị nhốt trong một thời điểm hay kết thúc tại mốc 30/4 như một dấu chấm
hết. Chúng ta cần nhận diện sự tiếp diễn của chúng – từ những hệ lụy của chiến
tranh, chính sách khắc nghiệt với đồng loại, đến những nỗ lực hòa giải với kẻ
từng là thù địch; từ thân phận trong trại cải tạo đến trại tị nạn, hay những mảnh
đời chìm sâu dưới đáy đại dương.
Lịch sử chiến tranh
phải là lịch sử của những con người còn lại và đã ra đi – những người bị ruồng
bỏ ngay trên đất mẹ, nhưng vẫn đang tự tái tạo mình trên xứ người. Nó phải
ghi nhận sự tồn tại của hàng triệu người Việt ở hải ngoại – không chỉ ở Mỹ,
Canada, Pháp hay Úc, mà còn cả ở Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Nga và Đông
Âu – những nơi họ phải vật lộn để tồn tại, đối diện với xung đột thế hệ và nỗ lực
khẳng định sự hiện diện và ký ức của mình.
Muốn hòa giải với
nhau, trước tiên chúng ta phải hòa giải với chính lịch sử – bằng cách can đảm đối
diện với nó, nhận diện sự hiện diện của nhau trong lịch sử, trong hiện tại, và
cả tương lai. Bởi nếu không thể thừa nhận sự tồn tại của nhau, thì chúng ta lấy
gì để bắt đầu một cuộc hòa giải đúng nghĩa? Và nếu chúng ta không thể mở lòng để
làm được điều đó, có lẽ chúng ta sẽ mãi giậm chân trong sự lão hóa của năm
tháng, chứ không bao giờ đủ trưởng thành để hiên ngang đứng trên nền tảng của lịch
sử mà bước tới tương lai.
Alex-Thái Đình Võ
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.