Thursday, December 5, 2024

Giang hồ Nam bộ bạc màu ‘Lương Sơn Bạc’

 BM

Ngày nay, người ta nói rằng nhiều người tự xưng là giang hồ thực ra là du đãng, là lưu manh, họ không có tư cách và phẩm chất của những giang hồ xưa.


Nguồn gốc văn hóa của danh từ ‘Giang hồ’


BM

Theo những tài liệu nghiên cứu về văn hóa Trung Hoa, từ “giang hồ” xuất hiện từ rất sớm. Trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc từ “giang hồ” đã xuất hiện trong các ghi chép của Tả Truyện và Mạnh Tử. Trong đó, “giang () hồ ()” được hiểu là những vùng sông nước xa xôi.


Trong những văn bản từ thời Xuân Thu, “giang hồ” thường được sử dụng như một hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống tự do, không ràng buộc với triều đình.


Thời Xuân Thu – Chiến Quốc là giai đoạn mà nhiều học giả như Khổng Tử, Mạnh Tử đã lựa chọn đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng, thường xuyên đến các vùng xa trung tâm quyền lực. Những nơi này cũng được coi là “giang hồ”.


Các bài thơ và luận văn của các nhà nho từ thời Xuân Thu đến Đường – Tống, như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lục Du, cũng đề cập đến hình tượng “giang hồ” là những vùng đất xa xôi, rộng lớn, hoang vắng, và là điểm đến cho những ước mơ vượt thoát khỏi cõi hồng trần ngột ngạt.


BM

Lý Bạch, nhà thơ nổi tiếng thời Đường, thường được gọi là “thi tiên,” được coi là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất đến khái niệm giang hồ trong văn học Trung cộng. Trong thơ ông, “giang hồ” xuất hiện với nghĩa đậm chất phiêu lãng, tự do và thoát ly trần thế.


Trong bài thơ “Tương Tiến Tửu” (Tạm dịch: Mời rượu), ông viết:


BM

Tru đao đon thy thy cánh lưu,

C bôi tiêu su su cánh su.

Nhân sinh ti thế bt xng ý,

Minh triêu tán phát lng biên chu

Dch gi Tương Như dch thành:

“Rút gươm chém nước, nước càng chy,

Nâng chén tiêu su, su li su.

Đời người chng được như ý mãi,

Sáng mai buông tóc, chèo thuyn xuôi.”

 

Dù không nhắc đến “giang hồ” một cách trực tiếp, câu cuối “Sáng mai buông tóc, chèo thuyền xuôi” gợi lên hình ảnh một cuộc sống phiêu du tự tại, hòa mình vào giang hồ bằng thuyền trên sông nước.

 

Đỗ Phủ, nhà thơ hiện thực vĩ đại thời Đường, cũng có những câu thơ làm người đọc liên tưởng tới “giang hồ.” Tuy nhiên, trong thơ của Đỗ Phủ “giang hồ” khoác lên mình điều gì đó u buồn hơn. Ông thường dùng “giang hồ” để ám chỉ sự lưu lạc, khổ cực trong cảnh loạn lạc thời kỳ An Sử.

 

Trong bài thơ “Đăng Nguyệt Dương Lâu” (tạm dịch: “Lên lầu Nguyệt Dương”), ông viết:


BM

Học giả Trần Trọng Kim dịch thành:


BM

Dù không nói trực tiếp tới “giang hồ,” hình ảnh trong hai câu thơ của Đỗ Phủ gợi ý về cuộc đời phiêu bạt trong cảnh loạn lạc, một dạng “giang hồ” bất đắc dĩ.


Lục Du là nhà thơ yêu nước thời Nam Tống. Ông nổi tiếng với những bài thơ mang đậm tình yêu quê hương. Ông có những bài thơ đề cập trực tiếp đến danh từ “giang hồ”. 


Trong bài thơ Bích Khê Dạ Cảm” (tạm dịch: “Cảm xúc đêm nơi Bích Khê”), ông viết:


Mng hi giang h dĩ cu

Tch dương h li trì tr


Học giả Trần Trọng Kim dịch thành:


“Gic mng giang h đã lâu,

Hoàng hôn tà tà bước đi.”


Hai câu thơ này nhắc đến khát vọng được trở về cuộc sống tự do nơi “giang hồ,” một biểu tượng cho vùng đất xa xôi, cách biệt với thế giới quan trường đầy ràng buộc.


Tác phẩm “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của La Quán Trung ám chỉ “Giang hồ” không chỉ là nơi nương náu của những anh hùng thất thế, mà còn là môi trường ươm mầm các nhân vật tài giỏi, như Quan Vũ, Trương Phi.


Trong một đoạn đối thoại, Lưu Bị từng nói với Quan Vũ và Trương Phi khi ba người đang phiêu bạt:

“Dù chúng ta chỉ là thường dân áo vải, nhưng chí hướng lại ở giang hồ, không cam chịu dưới kẻ khác.”


Khi bàn về anh hùng, Tào Tháo từng nói: “Những hào kiệt giang hồ nhất định sẽ tranh bá thiên hạ.”


Trong Thủy Hử của Thi Nại Am, từ “giang hồ” được nhắc đến trực tiếp với tần suất cao, mang ý nghĩa rất rõ ràng và đặc trưng. Khái niệm “giang hồ” trong Thủy Hử mang hai tầng ý nghĩa chính:


BM

Về nghĩa đen: “Giang hồ” chỉ các vùng sông nước hoặc những nơi xa cách trung tâm quyền lực, đặc biệt là vùng Lương Sơn Bạc, nơi tập trung các anh hùng hảo hán. “Giang hồ” ở đây tượng trưng cho không gian tự do ngoài vòng pháp luật, nơi không bị ràng buộc bởi triều đình hoặc quy tắc xã hội.


Về nghĩa bóng: “Giang hồ” trong Thủy Hử ám chỉ một thế giới ngầm, nơi hội tụ các nhân vật sống ngoài vòng pháp luật như hảo hán, kiếm sĩ, thương nhân phiêu bạt, hoặc những người bị xã hội ruồng bỏ. Đây cũng là nơi diễn ra các mối quan hệ giao thiệp giữa những người có chung chí hướng hoặc cần giúp đỡ lẫn nhau.


Trong chương đầu của Thủy Hử, khi kể về sự hình thành của nhóm hảo hán Lương Sơn Bạc, nhà văn Thi Nại Am viết: “Những người trong giang hồ có nghĩa khí đều tụ hội ở Lương Sơn Bạc.”


Ở một đoạn khác trong Thủy Hử, anh hùng Lý Quỳ nói với anh em: “Chúng ta sống trong giang hồ, điều quan trọng nhất chính là tình nghĩa huynh đệ.”


Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, “giang hồ” được nhắc đến trong câu thơ mô tả Từ Hải: “Giang hồ quen thói vẫy vùng”, với ý rằng Từ Hải là người yêu thích cuộc sống tự do, đầy khí phách, không chịu khuất phục cường quyền.


BM

Về sau này, trong các tác phẩm võ hiệp như của nhà văn Kim Dung, nghĩa của danh từ “giang hồ” dường như bị giới hạn lại khi khiến người đọc hiểu rằng nó ám chỉ thế giới của riêng những người có võ nghệ, sống lang bạt nay đây mai đó, hình thành một xã hội có sự phức tạp riêng, nhiều ân oán và lắm thị phi. Xã hội thu nhỏ này có luật lệ riêng, nhưng cũng dựa trên nền tảng tôn trọng sự thật, tôn vinh lòng khoan dung, nhân ái và nhẫn nại. Những cuộc tranh hùng giữa những cá nhân hay phe nhóm cũng thể hiện rõ nét sự đối lập giữa chính tà, thiện ác.


Dần dà theo thời gian, người ta bắt đầu hiểu “giang hồ” từ nghĩa ban đầu là chỉ không gian, sang chỉ con người. Khi nhắc tới hai từ “giang hồ”, người ta sẽ không nghĩ tới sông hồ hay các vùng đất rộng lớn, xa xôi nữa, mà nghĩ tới những người như kiểu 108 vị anh hùng ở Lương Sơn Bạc, hay những hiệp khách trong các tác phẩm của Kim Dung. Đó là những người vì hành hiệp trượng nghĩa hay bị bức bách mà vi phạm pháp luật, hoặc đó là những người yêu thích cuộc sống xê dịch, tự do, có tâm hồn phóng khoáng, cởi mở, trọng nghĩa khí, danh dự, coi thường tiền tài, danh vọng, luôn bảo vệ, che chở kẻ yếu, không e sợ cường quyền, dám dấn thân, chấp nhận phần rủi ro về mình để bảo vệ chính nghĩa.


‘Giang hồ’ tha hóa thành ‘lưu manh’


BM

Nói chung, theo cách hiểu của người xưa, người giang hồ đúng nghĩa đều tài ba hơn người, có tiêu chuẩn đạo đức cao, nhiều người trong số đó ôm chí lớn vì thiên hạ. Họ chỉ khác người bình thường ở chỗ, một số quan niệm của họ vượt ra ngoài những ràng buộc của pháp luật. Về cơ bản, họ không gây hại cho xã hội, mà ngược lại còn mang tới những điều tích cực, vì họ bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ chính nghĩa theo cách riêng của họ.


Những phẩm chất của người giang hồ thứ thiết xây dựng nên hình ảnh vừa hiên ngang, bất khuất, vừa lãng tử, vừa cứng rắn, dũng mãnh, vừa tài hoa, vừa xù xì gai góc, nhưng gần gũi, chân thành, mang tới cho đời một cái đẹp khác lạ, từ hình thức tới phong cách. Vì thế họ được người đời nể trọng, mến phục.


Xưa này cái đẹp luôn bị lợi dụng. Danh từ “giang hồ” cũng không phải là ngoại lệ. Nhiều kẻ tiểu nhân, vị tư, ích kỷ, phẩm hạnh thấp kép, nhỏ mọn, cũng tự nhận mình là người trong chốn giang hồ. Thực ra, những kẻ như thế, trong dân gian thường gọi là du đãng hay lưu manh. Họ tự nhận là giang hồ để thỏa mãn cái danh và cũng là để dễ lừa người.


BM

Danh từ “Du đãng” để ám chỉ những kẻ côn đồ, hung hăng, ưa bạo lực, thường vì lợi cho cá nhân mà sử dụng sức mạnh cơ bắp hay sự liều lĩnh để ức hiếp người khác. Bên cạnh đó, dân gian dùng danh từ “lưu manh” hay “du thủ, du thực” để chỉ những kẻ xấu, lười láo, gian manh, không muốn phó xuất, chỉ muốn trục lợi, biểu hiện của họ là vô liêm sỉ, lươn lẹo, luồn lách, tranh thủ mọi sơ hở, cơ hội để trộm, cướp, chiếm đoạt lợi ích của người khác.


Những kẻ du đãng, lưu manh cũng thường có cuộc sống phiêu bạt, không tuân theo các quy chuẩn xã hội nên nếu họ giỏi tạo hình ảnh sẽ khiến người ta nhầm tưởng họ là “giang hồ”. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ sẽ thấy ngay, mọi hành động của họ đều vì tư lợi, sẵn sàng thượng đội hạ đạp để tìm kiếm lợi ích, chứ không vì người, vì nghĩa mà hành động như “giang hồ” thứ thiệt.


Những kẻ du đãng, lưu manh thường dễ bị các thế lực hắc ám lợi dụng hoặc chủ động câu kết với các thế lực này để làm việc xấu, bởi vì họ không có tiêu chuẩn đạo đức ước thúc như những giang hồ thứ thiệt.


Lưu manh thường xuất hiện nhiều hơn trong các xã hội mà nhà cầm quyền thối nát, luân thường đạo lý không còn được coi trọng, đặc biệt là niềm tin vào Thần, Phật bị xem thường, thậm chí bị chế giễu.


Lưu manh có hai dạng, một dạng dễ nhận ra là những lưu manh hạ lưu với hình dạng thân thể dị hợm, tư tưởng và hành vi thấp kép. Dạng thứ hai đặc biệt khó nhận biết, đó là những lưu manh “giả danh trí thức”. Họ từ hình dáng, ngôn hành, tới hành vi lúc nào cũng “sáng bóng”, lại còn hay giao giảng đạo đức. Nhạc Bất Quần trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của nhà văn Kim Dung là một điển hình cho loại lưu manh giả danh trí thức, người xưa gọi những người như Nhạc là ngụy quân tử.


Con người có sinh, lão, bệnh, tử; Phật pháp cho biết, vũ trụ có thành, trụ, hoại, diệt. Thời kỳ diệt của vũ trụ được hiểu là thời kỳ mạt pháp mà Phật Thích Ca nói tới. Xã hội nhân loại ngày nay chính là đang ở trong thời kỳ mạt pháp. Ở thời kỳ này, mọi thứ đều trở nên bại hoại, tạo nên mảnh đất cực kỳ màu mỡ cho lưu manh phát triển.


Sự bùng nổ của lưu manh cũng đánh dấu sự thoái trào của giang hồ đúng nghĩa. Các giang hồ thứ thiệt phải đối mặt với hai lựa chọn, một là trở thành thường nhân, sống cuộc đời nhỏ hẹp, hai là phải chấp nhận sự tha hóa để trở thành lưu manh. Theo dòng chảy suy đồi, đa số giang hồ đã lựa chọn trở thành lưu manh, họ dần chìm trong vũng bùn của thời mạt thế.


Vì sao giang hồ Nam Bộ nay bạc màu, biến chất?


BM

Giang hồ Nam bộ xưa được cho là phảng phất màu sắc kiểu Lương Sơn Bạc. Thời đó, giang hồ vùng sông nước phía Nam thường đều có võ nghệ, nhiều người là võ sĩ.


Thời nay, người ta đều nói chất giang hồ ở xứ Nam kỳ ngày càng nhạt dần, du đãng và lưu manh lên ngôi. Cái hào sảng, tính cách của Lục Vân Tiên, cái chất Lương Sơn Bạc của giang hồ Nam bộ thứ thiệt đã bạc màu, mai một dần theo thời gian. Nghĩa của từ “giang hồ” giờ đây đã bị đồng hóa với nghĩa của “du đãng”, của “lưu manh”, của “du thủ, du thực”. Vì thế, khi nghĩ về giang hồ, người ta đều có cảm giác tiêu cực.


Có nhiều luồng ý kiến nếu ra nguyên nhân khiến giang hồ Nam bộ bạc màu, mất chất. 


Nhiều giang hồ thời cũ cho biết, Năm Cam thời trẻ không hề có tên tuổi gì, giới giang hồ gần như không ai để mắt tới ông ta. Võ sư, giang hồ nổi tiếng một thời – ông Chà Và Hương chia sẻ rằng, trong tù ông từng nhận được thư nhờ vả của chị Năm Cam. Bức thư khẩn cầu ông Chà Và Hương giúp bảo vệ ông Năm Cam trong tù và hứa hẹn sẽ hậu tạ. Đó là lý do vì sao khi Năm Cam thành ông trùm đã tạ ơn ông Chà Và Hương và mời ông về giúp, tuy nhiên ông Hương từ chối.


Người ta cho rằng Năm Cam sau này trở thành một đại ca khét tiếng là nhờ thủ đoạn và quan hệ.


Có ý kiến cho rằng, dùng thủ đoạn và quan hệ là hai điều sẽ không thể thấy ở giang hồ thứ thiệt, bởi tính cách đặc trưng của giang hồ thứ thiệt là vị tha, cương trực, bất khuất, không bao giờ chịu luồn cúi, đi cửa sau. Chính xã hội thay đổi sau những biến cố lớn, quan niệm trong văn hóa truyền thống bị thay bằng những quan niệm duy vật, tôn sùng kim tiền, vật chất, không tin vào nhân quả, luân hồi đã tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác lên ngôi, hình thành môi trường sống thuận lợi cho những người giỏi luồn lách như Năm Cam, và giang hồ theo đó mà bị tà hóa, để rồi vẻ đẹp ban đầu của giang hồ giờ đây chỉ còn trong ký ức.



Lục Du

***

Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang

 BM

Khoảng năm 1970 trở đi, Sài Gòn rộ lên phong trào thần tượng những người hùng du đãng. Các tiểu thuyết viết về du đãng được mùa và bán chạy như tôm tươi. Thanh niên nam nữ bị lôi cuốn bởi dòng văn học dệt hoa thêu gấm về du đãng này và học đòi làm theo, một phần cũng do sự bế tắc về lý tưởng của lớp trẻ bấy giờ.

https://baomai.blogspot.com/2023/09/vet-thu-tren-lung-ngua-hoang.html

https://baomai.blogspot.com/
Nữ văn sĩ lãng mạn Quỳnh Dao tự tử
CEO Brian Thompson sau vụ nổ súng gây tử vong
CEO UnitedHealthcare bị bắn chết bên ngoài khách sạn Manhattan
Vài suy nghĩ về văn hóa Bắc Kỳ
Những điều thú vị về Nhà thờ Đức Bà ở Paris
Sợ chính sách của ông Trump, một số di dân tìm cách hồi hương
Bi kịch của kẻ sát nhân - ‘không ai sinh ra đã ác’
Nợ đời một nửa, một nửa nợ ơn em
Trở Về Mái Trường Xưa
Những Sợi Tóc Bạc…
Quỹ đạo LEO của Địa Cầu ngày càng nhiều “Rác”
Cha và Con - Một Nơi Quay Về
Bể Mánh Hết Trơn
Thủy Quân Lục Chiến thanh toán băng đảng ở Texas theo kiểu Cao Bồi Viễn Tây
Vũ khí toàn cầu tăng nhờ chiến tranh và căng thẳng khu vực
Mexico chặn 2 đoàn di dân hướng đến Hoa Kỳ
Người biến thành thần
Trump dọa đánh thuế 100% nếu BRICS tìm cách thay thế đồng đô la
Biden ân xá con trai, mong dân Mỹ ‘hiểu cho quyết định này’
Tính nhạy cảm của 'vùng kín'

Mỹ là nước của di dân

 BM

Năm 2012, trong khi tranh cử lần thứ nhì, Tổng thống Barack Obama đã bị tố cáo với nhãn hiệu “Tổng Tư lệnh Trục Xuất” (Deporter-in-chief). Nhưng ông George W. Bush đã qua mặt ông Obama. Tổng thống Donald Trump có thể vượt qua thành tích của tất cả những người tiền nhiệm. Ông từng hứa trong nhiệm kỳ sắp tới sẽ trục xuất từ 15 đến 20 triệu di dân bất hợp pháp, theo Time.


Hàng triệu di dân không giấy tờ hợp pháp đang bị giam giữ ở Mỹ, ai cũng đồng ý nên trục xuất hết. Nhưng trục xuất hàng chục triệu người sẽ rất phức tạp, mất nhiều thời gian, và rất tốn tiền.


BM

Phải tìm cho ra hàng 10 triệu dân không giấy tờ chưa bị bắt. Phải xây dựng hàng trăm ngàn trại giam cho họ tạm trú. Phải huy động cảnh sát, quân đội. Nhưng không phải ai cũng đồng ý. Mỗi người nhận được lệnh trục xuất đều có quyền phản đối và kiện chính phủ Mỹ, theo đúng hiến pháp. Các vụ kiện này có thể kéo dài không biết bao nhiêu năm. Tòa án Di dân của Mỹ còn ứ đọng một số lượng lớn các ca di dân bất hợp pháp chưa được đem xử. Nếu tòa ra lệnh trục xuất, rồi làm sao gửi tất cả dân bất hợp pháp này về nước gốc của họ? Đa số từ Venezuela, Columbia hoặc Nicaragua, vân vân, đã lẻn vào Mexico để mượn đường qua Mỹ. Các quốc gia đó có chịu gánh lấy những đứa con lưu lạc này hay không?


Chi phí cho việc trục xuất hết di dân bất hợp pháp sẽ tốn đến $315 tỷ mỹ kim, theo báo mạng Newsweek ngày 29/11/ 2024. Đó là chưa kể những thiệt hại gây ra trong cả nền kinh tế Mỹ. Các nông trại không thể tìm được người làm chịu lãnh lương thấp như các di dân bất hợp pháp. Giá thực phẩm sẽ tăng lên. Nhiều công trường xây cất sẽ thiếu người làm việc. Sẽ khó tìm ra đủ số người làm lao công trong bệnh viện, săn sóc người già hay người bệnh tại nhà, đời sống hàng triệu dân Mỹ bị ảnh hưởng. Các quán ăn, ngay trong vùng Little Saigon ở California, sẽ khó kiếm người làm phụ bếp, rửa chén, bưng thức ăn hoặc quét dọn!


BM

Nhiều người nói rằng di dân đã cướp việc làm của người Mỹ bản xứ vì họ chấp nhận lãnh lương thấp. Theo Andy J. Semotiuk, trên tạp chí Forbes ngày 29 tháng 11, 2024 thì nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng tỏ ý kiến này không đúng. Giáo sư Paul Krugman, Đại học MIT, đã lý luận: Nếu di dân chiếm làm công việc của dân bản xứ thì trong mấy năm qua, khi số di dân lên cao, tỷ số người bản xứ thất nghiệp phải tăng lên. Nhưng điều này không xảy ra; tỷ số xuống thấp chưa từng thấy. Ngày 7 tháng 6, Tổng thống Joe Biden mới khoe rằng trong hơn ba năm nước Mỹ đã tạo thêm được 15.6 triệu công việc làm, thất nghiệp bằng hoặc xuống dưới 4 phần trăm trong 30 tháng liền, thời gian dài nhất trong nửa thế kỷ.


BM

Ông Paul Krugman nhớ lại trước đây vài chục năm ông cũng nghĩ rằng các di dân đã tranh giành công việc của người lao động bản xứ. Bây giờ ông và nhiều nhà kinh tế khác công nhận rằng di dân thường tìm và nhận làm những việc mà dân bản xứ không làm. Trong thực tế, trong mấy năm gần đây, số di dân vào Mỹ lên cao nhưng đồng lương tối thiểu ở Mỹ cũng tăng lên. Lương bổng tăng đẩy lạm phát lên cao. Tuy nhiên, không thể nói di dân là nguyên nhân gây ra lạm phát; mà có thể nói ngược lại. Sau bệnh dịch Covid-19, nhiều người Mỹ ngần ngại không muốn đi làm vì lo nhiễm bệnh; các xí nghiệp phải tăng lương để thu hút nhân công, giá hàng hóa cũng lên theo. Chính nhờ nhiều di dân mới vào Mỹ, đi tìm việc làm và nhận đồng lương thấp cho nên lạm phát không lên cao quá và đã dần dần giảm xuống.


Di dân còn tạo được một ảnh hưởng tốt lâu dài trên quỹ hưu bổng xã hội (Social Security) và y tế của chính phủ Mỹ (Medicare). Hầu hết các di dân bất hợp pháp đều ở tuổi đang làm việc và sẽ còn làm việc nhiều năm nữa. Trong thời gian đó, mỗi lần lãnh lương họ đều phải “đóng thuế” cho các quỹ Social Security và Medicare, các chủ nhân tự động cắt tiền thuế gửi cho các quỹ trên. Nhưng họ thường không có nhu cầu, không rút ra đồng nào từ các quỹ xã hội của nước Mỹ. Không những thế, vì quy chế đi làm không hợp pháp, sau này họ cũng không thể thụ hưởng trên số tiền mà họ đã đóng góp.


Di dân, hợp pháp hay không, giúp kinh tế Mỹ đủ người làm việc; vì thế giúp cho lạm phát bớt lên mạnh và giữ mức lãi suất không cao.


BM

Trước cơn bệnh dịch Covid, các nhà kinh tế làm việc cho quốc hội Mỹ tiên đoán trong năm 2024 có thể tạo thêm từ 60,000 đến 100,000 công việc làm mới mà không lo gây lạm phát vì số người tìm việc làm cũng vào khoảng đó, theo tin CNBC, ngày 17 tháng 6, 2024. Nếu số người không đủ so với số việc làm thì sẽ phải tăng lương cho công nhân, kéo vật giá tăng theo. Nhưng trong tháng Năm năm nay, số công việc làm mới tăng vọt lên tới 272,000 mà lạm phát không vọt lên quá cao; vì thị trường lao động đã được tiếp viện với các di dân mới từ biên giới phía Nam vào nước Mỹ. Nhờ thế, khi chủ tịch Ngân Hàng Trung Ương Mỹ, Jerome Powell, tăng lãi suất để ngăn lạm phát, ông không bắt buộc phải đưa lên mức quá cao – lãi suất cao có thể khiến kinh tế giảm tốc độ phát triển.


Nước Mỹ do các di dân thành lập, và phát triển nhờ tiếp tục thu hút di dân mới. Từ nay đến cuối thế kỷ 21, dân số các nước tiến bộ ở châu Âu, dân số Nhật Bản và Trung cộng đều đi xuống. Chỉ có dân số Mỹ hy vọng sẽ còn giữ vững được, chính là nhờ hấp dẫn di dân mới.


BM

Stuart Anderson, trên mạng Foster News, cho biết một nghiên cứu của cơ quan National Foundation for American Policy tìm ra rằng 55% các công ty mới lập (startup) ở Mỹ trị giá $1 tỷ đô la có ít nhất một di dân góp công thành lập. Trong số các doanh nghiệp loại này, California được 33 công ty đặt đại bản doanh, sau đến New York (8), Massachusetts (5), Illinois (2), Florida (1) and Washington state (1). Những di dân nổi tiếng đã vào nước Mỹ phải kể đến Albert Einstein, đến từ Thụy Sĩ, Áo, Hungary và Đức; Jerry Yang, đồng sáng lập Yahoo! gốc Đài Loan; Sergey Brin di cư từ Liên Xô cũ, cùng với Larry Page lập ra công ty Google. Phải kể thêm, bà Melania Trump, từ Slovenia, Nam Tư cũ, sang Mỹ làm người mẫu trước khi kết hôn với ông Donald Trump.



Ngô Nhân Dụng


baomai.blogspot.com
Kế hoạch của Trump về cuộc chiến ở Ukraine: Nhượng đất, từ bỏ gia nhập NATO
12 Việt cộng Quân khu 7 tử vong
Nữ văn sĩ lãng mạn Quỳnh Dao tự tử
CEO Brian Thompson sau vụ nổ súng gây tử vong
CEO UnitedHealthcare bị bắn chết bên ngoài khách sạn Manhattan
Vài suy nghĩ về văn hóa Bắc Kỳ
Những điều thú vị về Nhà thờ Đức Bà ở Paris
Sợ chính sách của ông Trump, một số di dân tìm cách hồi hương
Bi kịch của kẻ sát nhân - ‘không ai sinh ra đã ác’
Nợ đời một nửa, một nửa nợ ơn em
Trở Về Mái Trường Xưa
Những Sợi Tóc Bạc…
Quỹ đạo LEO của Địa Cầu ngày càng nhiều “Rác”
Cha và Con - Một Nơi Quay Về
Bể Mánh Hết Trơn
Thủy Quân Lục Chiến thanh toán băng đảng ở Texas theo kiểu Cao Bồi Viễn Tây
Vũ khí toàn cầu tăng nhờ chiến tranh và căng thẳng khu vực
Mexico chặn 2 đoàn di dân hướng đến Hoa Kỳ
Người biến thành thần
Trump dọa đánh thuế 100% nếu BRICS tìm cách thay thế đồng đô la