
Gần 50 năm sau ngày
kết thúc Chiến tranh Việt Nam, nhiều học giả, nhân chứng đã cùng chia sẻ nghiên
cứu, quan điểm và trải nghiệm của mình về giai đoạn lịch sử khốc liệt này.
Tuần qua, tôi đi
Lubbock tham dự một hội nghị dịp kỷ niệm ngày 30/4. Khi máy bay gần đến Denver,
nhìn qua cửa sổ tôi thấy một mầu tuyết trắng.
Tuyết tháng Tư làm
tôi nhớ trong sách sử về Chiến tranh Việt Nam có ghi lại sự kiện là vào sáng
ngày 29/4/1975 trên sóng phát thanh FM ở Sài Gòn phát đi bài nhạc Mỹ: "I'm
dreaming of a white Christmas…" (Tôi đang mơ một Giáng sinh tuyết trắng)
mà tôi có biết gì đâu và chỉ nhớ ngày hôm sau, đang lênh đênh trên biển thì
nghe tiếng rè rè trên đài Sài Gòn là lệnh đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh, rồi
lời ca: "Rừng núi giang tay nối lại biển xa…" và bỗng dưng nước mắt
tuôn trào.
Cuối tháng Tư Sài
Gòn nóng đổ lửa, phượng bừng nở báo tin mùa hè sắp đến, nhưng ca khúc về mùa
đông được đài FM phát đi phát lại là hiệu lệnh cho tất cả người Mỹ biết cuộc di
tản khỏi Việt Nam đã bắt đầu.
Trưa ngày hôm sau,
trên đài Sài Gòn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đưa ra lời kêu gọi mọi người ở lại góp
tay xây dựng trong hòa bình. Ông cất tiếng ca mộc mạc, không đàn trống: "Mặt
đất bao la anh em ta về gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng, trời rộng bàn tay
ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…"
Mạch tự sự chủ đạo
lúc bấy giờ là: Miền Nam đã được giải phóng. Chiến tranh đã chấm đứt. Quê hương
đã thống nhất. Nhân dân đã đánh đuổi được giặc Mỹ xâm lược.
Rồi chuyện gì đã xảy
ra sau ngày 30/4 năm đó, ở Việt Nam và ở hải ngoại? Đó là chủ đề của hội thảo 1975:
The End of the Vietnam War (1975: Kết thúc Chiến tranh Việt Nam), tổ chức
tại Đại học Texas Tech từ ngày 10 đến 13/4 vừa qua.
Dù cuộc chiến đã chấm
dứt tại mốc thời gian 30/4/1975, sau nửa thế kỷ hai tiếng "Việt Nam"
vẫn còn được nhiều người từ hai bên bờ Thái Bình Dương tiếp tục nghiên cứu, tìm
hiểu. Những học giả, sinh viên, cựu chiến binh, nhà báo, nhà văn, nhạc sĩ, người
làm từ thiện, hoạt động cộng đồng đã trình bày công trình học thuật hay chia sẻ
kinh nghiệm, kỷ niệm trong 30 buổi thảo luận.
Về trải nghiệm của
những người lính Mỹ ở Củ Chi là bài của Paloma Guerra, về tù binh Mỹ là bài của
Brian Washam. Oscar Coles nói về những gì bộ đội mang theo khi vào nam chiến đấu,
trong đó có báo Trường Sơn. Uyên Nguyễn nói về lực lượng Địa phương quân của Việt
Nam Cộng hòa.
George
"Jay" Veith nhìn lại chiến dịch quân sự của Hà Nội trong tháng Ba và
tháng Tư trước khi bộ đội cộng sản tiến vào Sài Gòn. John F. Burn nói về chiến
dịch Operation Frequent Wind (Chiến dịch Gió lốc) di tản người Mỹ và người Việt
ra khỏi Việt Nam vào phút tối hậu của chiến cuộc.
Miguel Lechuga nói về
thành công và thất bại trong việc di tản trẻ em trong chiến dịch Operation
Babylift.
Sau di tản tháng
4/75 và vài tháng qua các trại tị nạn, 120.000 người Việt đã được Hoa Kỳ nhận
cho định cư và cộng đồng người Việt tại Mỹ hình thành từ đó.
Tại hội thảo có Hải
Cao, Steve Potts và Nghĩa M. Võ nói về những nỗ lực vươn lên của người tị nạn
trên đất mới, từ California qua Georgia, Minnesota.
Sau cuộc chiến, nhiều
vấn đề còn tồn tại và phải mất nhiều năm mới có tiến triển. Quan hệ giữa Hoa Kỳ
và Việt Nam, được mở ra năm 1995, là bài nói chuyện của Mã Y Vân, sinh viên Đại
học Fulbright Vietnam.
Amanda C. Demmer,
tác giả của After Saigon's Fall: A 50-Year Retrospective (Sau ngày
Sài Gòn thất thủ: 50 năm nhìn lại), ghi nhận những khó khăn và thành quả trong
quan hệ Mỹ-Việt, từ POW-MIA đến tù cải tạo, H.O., con lai; từ nhân quyền đến
thuyền nhân vượt biển, xử lí chất độc da cam.
Andrew Wells-Dang,
chuyên gia cao cấp về Đông Nam Á, làm việc cho United States Institute for Peace
(Viện Hoa Kỳ vì Hòa bình) vừa bị chính quyền Donald Trump dẹp bỏ, nói đến quyền
lợi quốc gia của hai nước trong việc xây dựng quan hệ dựa trên lòng tin và sự
tôn trọng thể chế của nhau. Ông nói đến những trợ giúp mà Hoa Kỳ dành cho Việt
Nam qua các dự án được tài trợ bởi USAID, nay bị cắt cùng với các chương trình
Việt ngữ của đài VOA, RFA sẽ làm Hoa Kỳ mất ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam hậu chiến
tranh là những chính sách cai trị đầy bạo lực do Alex-Thái Đình Võ, Đại học
Texas Tech, trình bày. Bài về lịch sử của Điều 4 Hiến pháp là của Alec
Holcombe, Đại học Ohio. Cody J. Billock nói về Huế những tháng ngày sau khi được
giải phóng, trong đó đề cập đến những người con của Huế như Nhã Ca, Trịnh Công
Sơn, Phan Nhật Nam, Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý, người bị
giam tù, người không còn được tự do sáng tác.
Tường Vũ, Đại học
Oregon, nói về chính sách đàn áp sắt máu của Hà Nội qua vụ án Vinh Sơn, vụ án
dòng Đồng Công. Tuấn Hoàng, Đại học Pepperdine, bàn về sinh hoạt và phát triển của
giáo hội công giáo. Trinh Lưu nghiên cứu về các chính sách tiêu diệt văn hoá miền
Nam sau 1975.
Hệ lụy của chiến
tranh có bài nói chuyện của Diane Fox về chất độc da cam, bài của Michael
Peavey Đỗ nhắc đến vết thương không lành của những ai từng bị bắt đi học tập cải
tạo.
Nghĩa trang Quân đội
Biên Hòa ngày trước, nay là Nghĩa trang Nhân dân Bình An, được ba sinh viên tuổi
đôi mươi tìm hiểu, hai từ trong nước và một tại Hoa Kỳ, là Trần Nguyễn Phương
Thảo, Tạ Bảo Long từ Đại học Fulbright Vietnam và Tiana Dương từ Đại học
Dartmouth. Theo các bạn này, việc ra vào nghĩa trang còn giới hạn và khi gặp
người đi thăm, hỏi chuyện thì hầu hết không muốn trả lời vì sợ bị phiền phức.
Chỉ có một cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa tuổi đã 80 đang làm công việc chăm
sóc các ngôi mộ trong nhiều năm qua là đồng ý cho các bạn phỏng vấn, quay phim.
Về cộng đồng người Mỹ
gốc Việt, sự định hình đặc tính bảo thủ và chống cộng sản được nghiên cứu bởi Ý
Nguyễn từ Đại học California, Dominguez Hills; Erica Allen-Kim, Đại học Toronto,
nói về sự hình thành của những khu Little Saigon.
Sinh hoạt văn hóa,
nghệ thuật trước và sau 1975 cũng là đề tài của nhiều bài nói chuyện. Jason
Nguyễn, Đại học Cerritos, so sánh âm nhạc miền nam trước và sau năm 1975; Phú
Vũ từ trường St. Peter Claver phân tích nhạc miền bắc và miền nam, Nữ-Anh Trần,
Đại học Connecticut, bàn về văn học hậu chiến.
Trong hội thảo về
nhân quyền, tác giả bài viết này đã nói về những tù nhân lương tâm trong 50 năm
qua, từ Nhã Ca, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Thanh
Liêm, Đoàn Viết Hoạt đến Lê Quốc Quân, Phạm Đoan Trang, Huy Đức, Nguyễn Sơn Lộ
và những nỗ lực của người Việt hải ngoại để cải tiến tình hình nhân quyền ở đó.
Ông Huỳnh Lương Thiện, chủ nhiệm tuần báo Mõ-SF, trình bày việc dùng truyền
thông báo chí để dân chúng Mỹ biết về những vi phạm nhân quyền của Hà Nội. Ông
Nguyễn Minh Huy là ca nhạc sĩ đấu tranh, cùng cô Lê Diễm Chi Huệ và Phong trào
Hưng Ca đã đem tiếng hát đến nhiều nơi vận động cho nhân quyền tại quê nhà. Hôm
nay chúng tôi đã đồng ca vài bài nhạc đấu tranh, trong đó có Em vẫn mơ một
ngày về của Nguyệt Ánh.
Nhiều người trẻ thuộc
thế hệ 1.5 và thế hệ thứ 2 đã đến với hội nghị vì quan tâm đến Việt Nam, muốn
hiểu hơn về cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Họ đã hoặc đang theo học khoa lịch sử,
xã hội, nhân văn có liên quan đến đất nước, con người Việt Nam như Nguyễn Hồng
Uyên, Trinh Lưu, Tiana Dương, Nguyễn Hoàng Thụy Kha, Christina Võ, Evyn
Espiritu-Gandhi, Nguyễn Thị Kim Hoa, Tạ Bảo Long, Trần Nguyễn Phương Thảo, Mã Y
Vân.
Đặc biệt tôi đã thấy
có cả bố và con cùng đi tham dự hội thảo. Chương Đỗ và Chu Đỗ chia sẻ trải nghiệm
về hành trình thoát khỏi Việt Nam vào tháng 4/1975. Nghĩa M. Võ và Christina Võ
có những khác biệt trong cách nhìn về quê hương Việt Nam, cha bỏ đi vào tháng
4/1975 trong ngậm ngùi, đã viết nhiều sách về thuyền nhân, về trại học tập cải
tạo, trong khi cô con gái đến Việt Nam thì tìm thấy cội nguồn, không như hình ảnh
quê hương trong tâm trí của người cha, như Christina đã viết trong tác phẩm My
Vietnam, Your Vietnam mà hai bố con viết chung, được Kalynh Ngô dịch ra tiếng
Việt là Việt Nam của con, Việt Nam của cha.
Sôi sục trong lòng một
số người Việt tham dự hội thảo, nhưng giữ yên lặng, là lúc Lệ Lý Hayslip nói
chuyện trong bữa ăn tối thứ Sáu 12/4. Tác giả của When Heaven and Earth
Changed Places (Khi Đất Trời đảo lộn), đã được Oliver Stone chuyển thành
phim, kể chuyện về đời mình, gốc Quảng Nam, gia đình theo cộng sản và bà đã bị
hãm hiếp, có con rơi, qua Mỹ từ năm 1970. Bà kể là bị người Việt ở Dallas chống
đối vì cho rằng bà ủng hộ chế độ cộng sản. Khoảng 20 người Việt lặng lẽ rời
phòng ăn để phản đối. Bài nói chuyện, chính ra là hỏi đáp, tâm tình cùng Nguyễn
Hồng Uyên, nhưng mới câu hỏi đầu bà đã nói liên tục hơn 20 phút. Bà khóc cho số
phận của mình, khiến cho cô Uyên cũng bật khóc theo.
Người Việt phản đối
vì Lệ Lý nói về yêu thương, tha thứ, hòa giải mà không hề nhắc đến thuyền nhân,
trong đó có nhiều người cũng bị hãm hiếp; không hề nhắc đến bao người đã bị
giam trong các trại học tập cải tạo. Như Hà Nội cũng chưa bao giờ nhắc đến những
thảm cảnh này.
Nước mắt cũng đã rơi
trong hội thảo khi nhà văn Andrew Lâm nói về thân phụ, Trung tướng Lâm Quang
Thi, mà lúc ông mất thì Andrew bị kẹt ở Việt Nam do Covid-19. Tướng Thi viết
hai tác phẩm Twenty-Five-Year Century và Hell in An Lộc là
để hóa giải dư luận xấu mà truyền thông Mỹ đã viết về Quân lực Việt Nam Cộng
hòa. Andrew kể rằng khi nhận tin Hell in An Lộc được nhà xuất bản cho
phát hành, cha ông đã bật khóc, vì xem như những gì ông muốn để lại cho các
cháu của ông và cho thế hệ mai sau, ông đã hoàn tất.
Trong cùng buổi thảo
luận với Andrew Lâm, có hai diễn giả cũng nói về người thân của họ là các tướng
tá của Việt Nam Cộng hòa. Evyn Espiritu-Gandhi, Đại học UCLA, nói về Ông Hai, tức
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, người đã bị cộng sản xử bắn vì không chịu đầu hàng.
Nhà văn Zora Mai Quỳnh
nói về bác của cô là Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan. Ông Loan là nhân vật trong bức
hình do Eddie Adams chụp năm 1968 khi ông xử bắn tại chỗ một du kích Việt Cộng,
bức hình đã gây chấn động thế giới, mà mấy ai biết được chỉ ít phút trước đó
chính người du kích này đã giết cả một gia đình 7 người. Đó là những thiên lệch
của truyền thông Mỹ.
Nhìn lại cuộc chiến
và hệ lụy của nó, câu hỏi đã được Tường Vũ, Đại học Oregon, đặt ra trong một buổi
thảo luận là "Ai đã giải phóng ai?" Đó cũng là một luận đề sẽ còn tiếp
tục được bàn luận trong tương lai.
Về những thay đổi
lãnh đạo gần đây ở Ba Đình, Stephen Young, tác giả của Kissinger's Betrayal,
trong một buổi thảo luận có góp ý, nói đến bài viết cách đây vài ngày của Tổng
Bí thư Tô Lâm, trong đó không nhắc gì đến chủ nghĩa Mác-Lênin hay chủ nghĩa xã
hội. Sự kiện này cho ông lạc quan về những thay đổi sắp có từ Hà Nội.
Phản biện lại,
George "Jay" Veith, cũng là một học giả về Việt Nam với những tác phẩm
như Black April: The Fall of South Vietnam (Tháng Tư đen: Sự sụp đổ của
miền Nam Việt Nam) và Peace, POWs and Power (Hòa bình, Tù binh và Quyền
lực), đã gặp Tô Lâm nhiều lần nhưng không tin ông tổng bí thư sẽ đem lại những
cải cách, vì là gốc công an, chỉ khéo che đậy sự độc tài.
Từ khi có Vietnam
Center (Trung tâm Việt Nam) do cựu sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ James Reckner
(1940-2018) sáng lập tại Đại học Texas Tech cách đây hơn 30 năm, mỗi năm ở đây
đều có tổ chức hội thảo về Việt Nam. Những hội thảo đầu tiên thường chú trọng đến
quân sử Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Sau khi thiết lập bang giao Mỹ-Việt năm
1995, sau đó bắt đầu có những cấp chỉ huy Quân đội Nhân dân và những nhà nghiên
cứu từ Việt Nam tham gia hội thảo.
Cùng lúc có nhiều
người tốt nghiệp tiến sĩ chuyên ngành liên quan đến Việt Nam, đến người Việt tị
nạn. Trong vòng 20 năm qua đã có nhiều nghiên cứu hơn về Việt Nam Cộng hòa, về
người Việt ở Mỹ cũng như nhiều nơi trên thế giới.
Vietnam Center tại Đại
học Texas Tech là nơi có Vietnam Archive lưu trữ hơn 30 triệu trang tài liệu và
cả vạn di vật liên quan đến cuộc chiến và người Việt, trong đó có nhiều tài liệu
mà học giả Douglas Pike (1924-2002), tác giả của tác phẩm Việt Cộng đã
thu thập được. Nhật ký Đặng Thùy Trâm là một trong những di vật được tìm ra ở
đây.
Nơi đây cũng lưu trữ
toàn bộ hồ sơ liên quan đến chương trình H.O. do bà Khúc Minh Thơ hiến tặng.
Dự hội thảo năm nay,
nhiều người đã được bà Sheon Montgomery, phụ trách tham khảo của văn khố, và
giáo sư Alex-Thái Đình Võ hướng dẫn đi thăm Vietnam Archive để thấy nơi đây có
nguồn tài liệu phong phú cho các nghiên cứu. Đi qua những kệ sách, tủ tài liệu,
báo chí, kệ di vật thấy có Công báo Việt Nam Cộng hòa, báo Thái Bình, báo Kháng
Chiến, nón bộ đội, nón lá, cờ Việt Nam Cộng hòa, có hình Hồ Chí Minh.
Tôi thấy tấm bích
chương quảng cáo cho triển lãm về chiến tranh Việt Nam tại Bảo tàng Oakland năm
2005 mà tôi đã cùng người Việt vùng Vịnh San Francisco phản đối ban tổ chức vì
triển lãm về Chiến tranh Việt Nam mà không có nhắc đến hệ lụy của nó, là người
Việt tị nạn tại Mỹ. Cuối cùng thì hình ảnh, di vật của người tù cải tạo, của
người vượt biển, những sinh hoạt chống cộng sản của người Việt đã được đem vào
cuộc triển lãm.
Bà Sheon nhắc nhở
chúng tôi cần lưu giữ những di sản của gia đình vì bản gốc luôn có giá trị cho
văn khố. Vì di vật chính là câu chuyện riêng của một người, của một gia đình.
Không nhất thiết phải là người có địa vị hay chức quyền.
Kết thúc hội thảo,
giáo sư Stephen Maxner, Giám đốc Vietnam Center, cám ơn 70 diễn giả đã đóng góp
tham luận và hơn một trăm khách đã tham dự để chương trình phong phú và thành
công. Ông loan báo, vào tháng 6 sang năm, hội thảo sẽ được tổ chức tại Việt
Nam.
Việc này dễ hay khó,
vì trong một buổi thảo luận trước đó đã có người nêu vấn đề là tại Việt Nam thì
người tham dự có được tự do trình bày nghiên cứu, tranh luận, đặt câu hỏi như
trong môi trường đại học ở Mỹ hay không.
Hy vọng đến khi đó
Việt Nam sẽ có tự do học thuật. Mấy tuần trước, một thành viên Bộ Chính trị đã
gặp gỡ một số trí thức tại Sài Gòn để nói chuyện, trong đó có chủ đề tự trị đại
học. Liệu đó có phải là chỉ dấu của thay đổi?
https://www.youtube.com/watch?v=VKRMV_63FQc
Bùi Văn Phú
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.