
Từ 05/08/1964 đến
29/03/1973 trong thời chiến tranh Việt Nam, nhà tù Hỏa Lò tại Hà Nội là nơi
giam giữ hàng trăm tù binh Mỹ, đặc biệt ít người biết trong số tù binh ở nhà tù
Hỏa Lò có một nữ tù binh duy nhất. Nữ tù binh này không phải là người Mỹ, mà
cũng chẳng phải là lính Mỹ. Nữ tù nhân này là một y tá người Đức (Tây Đức), tên
là Monika Schwinn, sang Đà Nẵng làm việc thiện nguyện giúp nạn nhân chiến
tranh. Sau gần 4 năm bị bắt giam, mặc dù không phải là người Mỹ và lính Mỹ,
nhưng cô Monika Schwinn được thả ra khỏi nhà tù Hỏa Lò chung với những tù binh
Mỹ ngay sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết.
Năm 1967, một con tầu
của hy vọng sơn mầu trắng, đến thả neo ở Ðà Nẵng. Ðó là con tầu y tế
“Helgoland” của Tây Đức, còn được gọi là bệnh viện nổi, phục vụ cứu trợ nhân đạo
cho các nạn nhân chiến tranh do Hồng Thập Tự của Tây Đức thực hiện. Cùng hoạt động
trong thành phố ấy còn có các toán y tế thuộc tổ chức Malteser Hilfsdienst, một
tổ chức từ thiện Thiên chúa giáo tại Tây Đức, gồm các bác sĩ, nữ y tá và các
nhân viên khác. Đây là các chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh của CHLB Ðức,
họ đã chữa trị cho cả hàng trăm ngàn thường dân Việt Nam, không phân biệt người
theo cộng sản hay quốc gia.
Trong khi con tàu y
tế “Helgoland” của Hồng Thập Tự chỉ hoạt động ở Việt Nam trong một thời gian ngắn
khoảng 1 năm, thì tổ chức Malteser Hilfsdienst thực hiện công việc thiện nguyện
suốt gần 9 năm trời, từ 07/09/1966 đến 10/04/1975, với tổng cộng 303 nhân viên
gồm bác sĩ, y tá và người săn sóc bệnh nhân v.v. phục vụ chăm sóc y tế cho người
dân Việt Nam – đặc biệt là ở Đà Nẵng, An Hòa và Hội An.
“Ðến nhờ chúng tôi chữa trị có những người lớn tay chân bị đứt lìa, và cả những đứa bé bụng bị rách toang…” khi Walter Ruhland kể lại về thời gian phục vụ của mình ở Việt Nam như vậy thì trên ánh mắt anh vẫn còn đầy vẻ khiếp sợ về những hình ảnh ấy. Anh là thợ cơ khí xe tải, tham dự chương trình cứu trợ Malteser Hilfsdienst hơn 40 năm trước đây, lúc ấy bỗng nhiên thấy mình hiện diện trong một cuộc chiến rất “khốc liệt và tàn bạo“.
Đối với cô Monika
Schwinn ở Lebach thuộc bang Saarland, giúp đỡ những người gặp khó khăn là điều
tự nhiên. “Cô ta luôn luôn hết sức sẳn lòng giúp đỡ“, anh họ Adolf Spaniol nhớ
lại. Ban đầu, người phụ nữ trẻ ở Lebach này học nghề thợ làm tóc. Nhưng nghề thực
sự cô yêu thích lại là y tá chăm sóc trẻ em. Không có gì ngạc nhiên với gia
đình cô rằng vào năm 1968, lúc 26 tuổi, cô đã đáp ứng theo lời kêu gọi của tổ
chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienstes: Cần các bác sĩ và y tá phục vụ cho
các bệnh viện ở Nam Việt Nam để giúp đỡ dân chúng, nạn nhân của cuộc chiến kéo
dài không hồi kết. Cô Monika Schwinn hạnh phúc khi cô làm việc tại khoa nhi ở bệnh
viện Đà Nẵng.
Bác sĩ và y tá của tổ chức cứu trợ Đức Malteser Hilfsdienst đang khám bệnh một em bé Việt Nam
Năm nhân viên Malteser Hilfsdienst bị Việt Cộng bắt cóc
Nhưng một ngày nghỉ
cuối tuần 27/04/1969 đã trở thành một ngày định mệnh đối với cô Monika Schwinn.
Cô ấy cùng với nữ đồng nghiệp Marie-Louise Kerber từ Nohfelden-Türkismühle cũng
thuộc bang Saarland, anh Bernhard Diehl 21 tuổi và hai y tá khác: cô Hindrika
Kortmann và anh Georg Bartsch, họ đi một chuyến dã ngoại tưởng như bình thường,
nhưng sau đó họ rơi vào một cuộc phục kích bên một cánh đồng lúa, bỗng nhiên xuất
hiện mười lăm tay súng Việt Cộng, lăm lăm chĩa mũi súng vào họ. Khi được đưa
vào làng, cả năm người đều hết sức tìm cách “chứng minh” mình chỉ là nhân viên
y tế, mà là người “Đức”, chứ không phải người Mỹ! Vô hiệu quả! Nhóm Việt Cộng
luôn đe dọa “cắt đầu”. Vài giờ sau khi bị bắt cóc, có lúc Bernhard Diehl đã
quay sang nói với các đồng nạn nhân của mình, trong đó có cô Marie Luise
Kerben, mới 19 tuổi: “Nguy quá, chắc phải mất ít nhất một năm để chúng mình mới
được can thiệp cho trở về nhà”.
“Đây thực sự là chiến tranh“, Bernhard Diehl ngạc nhiên nhận thấy, khi anh ta đến Việt Nam năm anh 21 tuổi. Trong thời gian đi nghĩa vụ quân sự, anh đã được đào tạo như một nhân viên y tế, giờ đây tại Việt Nam anh là người đứng đầu đội y tá Malteser ở An Hòa gần Đà Nẵng. Ban ngày vùng này được coi là an toàn. Nhưng ban đêm, đó là “khu vực tranh chấp“, một khu vực nơi quân du kích Việt Cộng đang cố gắng mở rộng ảnh hưởng. Anh Bernhard Diehl và đội y tá của anh ta chăm sóc các thương binh ở cả hai phía và dân chúng.
Năm nhân viên của tổ
chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst đã bị Việt Cộng bắt giữ ngày 27/04/1969
Nguyên do tại sao 5
nhân viên cứu trợ y tế của Tây Đức bị Việt Cộng bắt cóc?
Trong chiến tranh Việt
Nam, CHLB Đức không đáp ứng yêu cầu của đồng minh Mỹ đưa quân đội vào tham chiến
tại Việt Nam, để bù lại CHLB Ðức hiện diện tại miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng
hòa) với vai trò đóng góp nhiều về viện trợ kinh tế, giáo dục, cứu trợ y tế, cứu
trợ nạn nhân chiến tranh v.v.
Vậy tại sao 5 nhân
viên người Tây Đức làm nhiệm vụ cứu trợ y tế của tổ chức thiện nguyện Malteser
Hilfsdienst lại bị Việt Cộng bắt cóc?
Lý do là vì Cộng hòa Dân chủ Đức đã sử dụng Chiến tranh Việt Nam cho một chiến dịch tuyên truyền chống Tây Đức. Đây là một chiến dịch tuyên truyền rất là thâm độc của Ðông Bá Linh! Các nhân viên tuyên truyền kích động của CHDC Ðức dựng lên hình ảnh một nước Tây Ðức gây chiến và Cộng hòa Liên bang Đức là chư hầu của Mỹ, những người Tây Đức tình nguyện mặc áo bác sĩ chỉ là ngụy trang, họ chính là những người trợ giúp quân sự cho Nam Việt Nam.
Đồng thời họ ngụy tạo
tin quân đội CHLB Ðức gởi một đội quân bí mật sang Việt Nam dưới cái tên là
“Legion Vietnam” (Binh đoàn lê dương Đức tại Việt Nam)! Báo “Neues Deutschland”
(Nước Ðức Mới) của Đảng Cộng sản Đông Đức (SED) mô tả con tàu y tế “Helgoland”
trong bức tranh biếm họa như một tàu chiến, với hình khắc trên boong mũi là một
người lính.
Ngoài ra, ông Albert
Norden, lãnh đạo tuyên truyền trong Bộ Chính trị đảng SED (SED là tên viết tắt
của Ðảng Xã hội Thống nhất Ðức) ngụy tạo ra một số người làm “nhân chứng” về việc
có chiến đấu võ trang trong các toán công tác cứu trợ của CHLB Ðức!
Tiến sĩ Hermann von
Richthofen, hiện cư ngụ tại Berlin, hồi đó được gửi đến Đại sứ quán CHLB Đức tại
Sài Gòn với tư cách là một cố vấn trẻ trong ngoại giao đoàn, sau này cũng làm
việc ở Đông Berlin, ông đã nói vắn tắt về mục tiêu tuyên truyền của CHDC Ðức
như sau: “Tôi nghĩ rằng, Ðông Ðức chỉ muốn bằng mọi cách làm Tây Ðức chúng ta bị
suy yếu, không chỉ trên bình diện quốc tế, mà cả trong nội bộ nước CHLB Ðức. Đó
là việc gây ảnh hưởng tác động đến thế hệ 68, họ dễ bị mắc phải vào sự tuyên
truyền của Đông Đức. Và bằng cách thức này có thể gây xáo trộn để một chính phủ
khác lên cầm quyền“.
Trong số năm y tá
Tây Đức bị bắt cóc, chỉ có 2 người còn sống sót trở về
Sau khi 5 nhân viên
của tổ chức thiện nguyện Malteser Hilfsdienst bị Việt Cộng bắt cóc, họ bị áp giải
từ Nam ra Bắc, đi bộ dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Monika Schwinn và những
người cùng khổ của cô phải đi hết khu rừng này đến khu rừng khác. “Đó là một
phòng giam nhỏ, rộng khoảng một mét rưỡi và dài hai mét rưỡi. Cái giường là một
vài tấm ván nằm trên sàn bê tông ở độ cao từ 20 đến 25 cm. Một nửa mét vuông là
dành để cái xô vệ sinh“, Monika Schwinn viết trên tờ Der Spiegel (Tạp chí Tấm
gương) sau khi được thả ra hồi năm 1973. Họ bị thẩm vấn, tra tấn, hầu như không
được ăn gì. Bệnh tật và bị hạ nhục xảy ra thường xuyên. Ba trong số năm người
đã không sống sót nỗi. Cô Marie-Louise Kerber chết lúc bị giam cầm hồi năm
1969, mãi đến năm 1997 mới có thể đưa hài cốt cô về bang Saarland chôn cất.
Monika Schwinn cũng thường cận kề với cái chết hơn là sự sống. Nhưng cô đấu
tranh kiên cường, không để bị sỉ nhục. “Cắn vào tôi là họ gãy răng“, cô viết.
Đến một lúc nào đó
những vinh quang lắng dịu, và Monika Schwinn đi làm y tá trở lại tại Lebach,
chăm sóc trẻ sơ sinh. Cô cũng giúp những thuyền nhân tị nạn Việt Nam khi họ đến
Lebach. Như một điều tất nhiên. “Cô ấy luôn tạo ấn tượng vui vẻ với tôi“, anh họ
Adolf Spaniol của cô nói. Nhưng bị giam cầm một thời gian dài trong một điều kiện
cực kỳ khắc nghiệt như vậy, cô không thể hồi phục hoàn toàn giống như trước trước
đây được. Cô không thành lập gia đình và đã nghỉ hưu ở tuổi 55. “Cô ấy thường
xuyên bị ốm“, anh họ của cô nói, "có lẽ điều mà cũng làm cô ấy đau là người ta
không còn nhớ đến cô nữa“. Người ta đã quên cái giá mà cô ấy đã trả cho sự sẳn
lòng giúp đỡ của cô ta.
Hôm thứ Hai 12/03/2019 Monika Schwinn đã qua đời, thọ 76 tuổi, trong bệnh viện ở Lebach, nơi cô làm việc y tá ở khoa nhi trong một thời gian nhiều năm dài.
Vào thứ Năm ngày
21/03/2019, lúc 1 giờ chiều, buổi tang lễ cầu nguyện cho Monika Schwinn đã diễn
ra tại nhà thờ giáo xứ ở Lebach.

No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.