
Năm nay đánh dấu kỷ
niệm 50 năm ngày kết thúc cuộc nội chiến từ năm 1955 đến năm 1975 giữa Bắc và
Nam Việt Nam, một cuộc nội chiến giữa người Việt nhưng mỗi bên được một phe
trong Chiến tranh Lạnh ủng hộ.
Ở Việt Nam ngày nay,
không được phép nói cuộc chiến này là nội chiến giữa những người Việt Nam có niềm
tin chính trị khác nhau. Theo cách nhìn chính thống của nhà nước-Đảng Cộng sản,
đây là cuộc chiến tranh để bảo vệ và thống nhất đất nước bị nước ngoài xâm lược.
Tất cả người Việt Nam đều là nạn nhân của Mỹ và đoàn kết để chống lại Mỹ và tay
sai người Việt của Mỹ. Cho đến gần đây, các học giả và nhà báo nước ngoài chịu ảnh
hưởng của phong trào phản chiến những năm 1960 phần lớn đã lặp lại câu chuyện
đó.
Tuy nhiên, các nguồn
tài liệu gốc của Kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi đã đọc cho thấy
một lịch sử phù hợp hơn với quan điểm cho rằng cuộc chiến về bản chất là một cuộc
nội chiến do các nhà lãnh đạo cộng sản miền Bắc Việt Nam hoạch định và tiến
hành.
Họ, những nhà lãnh đạo
cộng sản miền Bắc Việt Nam, rất trung thành với chủ nghĩa cộng sản và chân
thành mong muốn đóng góp cho cuộc cách mạng thế giới để lật đổ chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa đế quốc. Đã đến lúc tất cả người Việt Nam và những người nghiên cứu
cuộc chiến này hiểu rõ hơn về nguyên nhân và bản chất của cuộc chiến đã cướp đi
sinh mạng của hàng triệu người Việt Nam.
Trong bài viết này,
tôi phác thảo những diễn biến chính trị dẫn đến sự bùng nổ của cuộc nội chiến,
đưa ra những diễn giải từ nguồn tiếng Việt của tôi. Trong phần cuối, tôi cũng
nói sơ qua về cách giảng dạy môn lịch sử ở Việt Nam ngày nay.
Để hiểu về cuộc chiến,
chúng ta phải bắt đầu với câu chuyện hệ tư tưởng cộng sản đã đến Việt Nam như
thế nào. Hệ tư tưởng này ra đời ở châu Âu và các khái niệm cộng sản như đấu
tranh giai cấp là điều hoàn toàn xa lạ với văn hóa chính trị của Việt Nam.
Không thể phủ nhận rằng học thuyết này được du nhập vào Việt Nam là kết quả của
công sức lao động kiên cường của những người cộng sản Việt Nam như cố Chủ tịch
Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ đáng kể từ Liên Xô và các đảng cộng sản ở các nước
khác, chẳng hạn như Trung cộng và Pháp.
Phong trào dân tộc
chủ nghĩa chống thực dân phát triển vào khoảng đầu thế kỷ 20 khi Việt Nam nằm
dưới sự cai trị của Pháp. Các nhà hoạt động Việt Nam đã tiếp nhận các ý tưởng
chính trị hiện đại từ các nguồn Trung cộng, Nhật Bản và Pháp. Một số người ủng
hộ cải cách văn hóa để hiện đại hóa đất nước như một cách chuẩn bị cho nền độc
lập dân tộc. Những người khác kêu gọi đấu tranh bạo lực để lật đổ chế độ cai trị
của thực dân.
Cách mạng Nga đã
truyền cảm hứng cho nhiều nhà cách mạng Việt Nam. Một số người hy vọng nhận được
sự giúp đỡ về mặt quân sự của Nga để chống lại người Pháp. Những người khác
(thường là những người trẻ tuổi, có trình độ học vấn cao hơn và biết tiếng
Pháp) đã lấy cảm hứng từ hệ tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt là lý thuyết đấu tranh
giai cấp trong lịch sử.
Họ say mê với ý tưởng
cách mạng để thay đổi thế giới và không chỉ giành độc lập cho Việt Nam mà còn tạo
ra một xã hội được xây dựng trên chế độ sở hữu công cộng về tài sản và không có
chế độ người bóc lột người.
Trong xã hội lý tưởng
đó, sau khi giai cấp bóc lột đã bị thủ tiêu, mọi tầng lớp khác đều bình đẳng.
Nam nữ cũng bình đẳng. Việt Nam cộng sản sẽ là anh em với các nước cộng sản
khác trong gia đình xã hội chủ nghĩa quốc tế. Với tấm gương của Liên Xô dưới thời
Stalin đang công nghiệp hóa rất nhanh chóng, những nhà cách mạng Việt Nam hy vọng
sẽ được học hỏi và dẫn dắt để đưa Việt Nam đến chỗ phú cường.
Hồ Chí Minh, nhà
lãnh đạo cộng sản tương lai, đã tiếp thu chủ nghĩa cộng sản khi còn là một
thanh niên sống ở Pháp. Ông tin vào lời hứa của Lênin sẽ hỗ trợ các thuộc địa.
Đầu tiên ông gia nhập Đảng Xã hội Pháp và giúp thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào
năm 1920. Ông cũng đã đến Liên Xô, nơi ông học tại Trường Stalin dành cho sinh
viên quốc tế muốn tìm hiểu về khoa học tổ chức cách mạng. Từ đó, ông được tuyển
dụng bởi Quốc tế Cộng sản thứ Ba (gọi tắt là Quốc tế Cộng sản), một tổ chức do
Lênin thành lập để chỉ đạo các phong trào cộng sản trên toàn thế giới.
Sau đó, Hồ Chí Minh
đã đến miền nam Trung cộng với tư cách là nhân viên của Quốc tế Cộng sản để
giúp phát triển phong trào cộng sản ở Đông Nam Á. Tại đó, ông hợp tác với Đảng
Cộng sản Trung cộng, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS_VN) tại Hong Kong
(Hương Cảng) vào năm 1930 và giúp thành lập các đảng cộng sản ở Xiêm (Thái Lan)
và Mã Lai. Trong suốt những năm 1930, Hồ Chí Minh làm việc tận tụy cho Quốc tế
Cộng sản, chỉ trở về Việt Nam vào năm 1941.
Nhiều người khác như Trần Phú và Hà Huy Tập đã theo Hồ Chí Minh và được gởi sang đào tạo tại Moscow và sau đó trở về Việt Nam. Hai lần, vào những năm 1930-31 và 1940, ĐCS_VN bị người Pháp đàn áp nặng nề và gần như xóa sổ, nhưng nhờ sự hỗ trợ của Liên Xô đã phục hồi.
Tại sao Hồ Chí Minh lại liên lạc với Hoa Kỳ vào năm 1945?
Như vậy không có gì
bàn cãi việc Hồ Chí Minh là một chiến sĩ trong phong trào cộng sản toàn cầu
trong nhiều thập kỷ. Điều này là rất quan trọng để hiểu tại sao Việt Nam hậu
thuộc địa dưới sự lãnh đạo của ông lại trở thành một quốc gia cộng sản.
Nhiều học giả như
Mark Bradley tin rằng Hồ Chí Minh là một người yêu nước chỉ muốn đất nước mình
được giải phóng khỏi sự cai trị của Pháp. Họ lập luận rằng những người cộng sản
Việt Nam như chủ tịch Hồ Chí Minh buộc phải gia nhập phe Liên Xô trong Chiến
tranh Lạnh chỉ vì Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman không công nhận chính phủ của
Hồ Chí Minh vào cuối năm 1945. Bằng chứng là Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên
ngôn Độc lập của Hoa Kỳ trong bản tuyên ngôn độc lập của ông và ông đã từng viết
lá thư cho Truman. Nhưng tiếc là vị tổng thống này coi Hồ Chí Minh là một người
cộng sản và không trả lời.
Tuy nhiên, đến năm
1945, Hồ Chí Minh không chỉ là một người yêu nước, ông đã là một nhà hoạt động
cộng sản lão luyện. Vào thời điểm đó, ông đã phục vụ với tư cách là một nhân
viên của Quốc tế Cộng sản trong hai thập kỷ và giúp thành lập các đảng cộng sản
ở Đông Dương, Xiêm và Mã Lai.
Hồ Chí Minh đã gửi
quân sang miền nam Trung cộng hỗ trợ lực lượng cộng sản Trung cộng vào cuối những
năm 1940 để giành chiến thắng trong cuộc nội chiến ở Trung cộng. Stalin quan
tâm đến Pháp hơn là Đông Dương hay Việt Nam, và Hồ Chí Minh đã cố gắng làm tất
cả trong khả năng của mình để Stalin chú ý đến Đông Dương và ủng hộ những người
cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã bí mật
đến Nga và đề xuất với Stalin một hiệp ước phòng thủ chung vào năm 1950, nhưng
không được ông ấy chấp thuận. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu Trung cộng cộng sản gửi
cố vấn quân sự để chỉ huy quân đội Việt Nam xuống tận cấp tiểu đoàn. Đảng của
ông hoàn toàn ủng hộ ông trong nỗ lực tìm kiếm sự giúp đỡ từ khối Liên Xô.
Không có bằng chứng
hay tài liệu nào chứng minh là những người cộng sản Việt Nam thích Hoa Kỳ hơn Trung
cộng và Liên Xô. Các học giả và nhà báo phản chiến vào những năm 1960, như
George Kahin, David Marr và Frances Fitzgerald, đa phần không đọc tiếng Việt
và chỉ đọc những gì ĐCS_VN muốn họ đọc. Các học giả và nhà báo phản chiến đó đã
đưa ra câu chuyện này để lập luận rằng Hoa Kỳ không nên can thiệp vào Việt Nam
để giúp đỡ chế độ miền Nam Việt Nam chống cộng sản.
'Cách mạng tháng
Tám' năm 1945 bắt đầu một cuộc nội chiến
Cuộc nội chiến
1955-1975 thực sự bắt nguồn từ cuối năm 1945. Vào thời điểm đó, Nhật Bản đang
chiếm đóng Đông Dương và các chính sách của họ đã tạo ra một nạn đói lớn ở miền
Bắc Việt Nam khiến hơn một triệu người thiệt mạng. Khi Nhật Bản đầu hàng vào
tháng 8 năm 1945, một khoảng trống quyền lực xuất hiện và nhiều người Việt Nam
đã lợi dụng tình hình hỗn quân hỗn quan để phá các kho thóc và văn phòng chính
quyền. Một số nhóm chính trị xuất hiện chiếm giữ chính quyền địa phương.
Việt Minh là một
nhóm trước đây được ĐCS_VN tổ chức như một mặt trận để tập hợp sự ủng hộ của
người dân cho phong trào. Các nhóm Việt Minh giành được quyền lực ở Hà Nội, Sài
Gòn và một số thành phố khác. Các nhóm khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Đại
Việt cũng chiếm giữ chính quyền ở một số nơi. Các nhóm Việt Minh đã đưa những
người cộng sản lên nắm quyền và Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo cộng sản, đã thành lập
Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa vào đầu tháng 9 năm 1945.
Sau khi lên nắm quyền,
những người cộng sản đã nhanh chóng xây dựng một lực lượng cảnh sát và một quân
đội, sử dụng lực lượng này trước tiên để đàn áp các đối thủ chính trị. Nhiều
nhà lãnh đạo dân tộc, tôn giáo, kể cả những người theo lãnh tụ Trotsky của Quốc
tế Cộng Sản thứ Tư (là kẻ thù của Stalin và Quốc tế Cộng sản thứ Ba), đã bị
chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa bắt giữ và sát hại như Bùi Quang Chiêu,
Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, và Huỳnh Phú Sổ. Quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cũng đã phát động các cuộc tấn công để chiếm các thành phố do các đảng khác
kiểm soát. Các bên khác đã chống lại nhưng đều bị tiêu diệt, ngoại trừ vài nhóm
ở miền Nam Việt Nam như Phật giáo Hòa Hảo hoặc Cao Đài.
Sau những nỗ lực bất thành để đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên chiến với Pháp vào tháng 12 năm 1946. Quân đội Pháp hùng mạnh hơn và đã nhanh chóng đẩy lui quân đội Việt Nam ra khỏi các thành phố và thị trấn. Quân đội của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa dựa vào vùng nông thôn và địa hình đồi núi để tiến hành chiến tranh du kích.
Cố vấn Trung cộng
cũng đã giúp chính phủ của Hồ Chí Minh thực hiện chiến dịch Cải cách Ruộng đất
trong giai đoạn 1953-1956. Chiến dịch này mở ra một cuộc đấu tranh giai cấp khốc
liệt ở nông thôn để xóa bỏ giai cấp địa chủ. Những người nông dân nghèo ở hầu hết
các làng xã được huy động để đứng lên chống lại địa chủ.
Hàng chục ngàn địa
chủ và nông dân giàu có đã bị tra tấn và hành quyết trong chiến dịch chỉ vì tội
có sở hữu đất đai và thuê người làm. Chiến dịch đã giúp chính quyền Hồ Chí Minh
huy động thêm nhân lực và thuế cho chiến tranh. Nó giúp chế độ của ông xây dựng
được sự ủng hộ mạnh mẽ từ những người nông dân nghèo.
Người Trung cộng
cũng giúp ĐCS_VN tổ chức lại chính quyền của mình theo mô hình cộng sản Trung cộng.
Điều lệ của ĐCS_VN năm 1951 đã liệt kê tư tưởng của Mao Trạch Đông, nhà lãnh đạo
cộng sản Trung cộng, là một trong những trụ cột trong hệ tư tưởng của đảng. Ba
trụ cột khác là Mác, Lênin và Stalin.
Đời sống và kinh tế ở
miền Bắc Việt Nam sau năm 1954
Điều kiện kinh tế ở
Bắc Việt Nam trong những năm 1950 nói chung là kém. Chiến tranh với Pháp đã gây
ra thiệt hại đáng kể về tài sản và mùa màng, trong khi việc động viên nhân lực
cho quân đội đã tạo ra tình trạng thiếu hụt lao động. Người dân kiệt sức vì
gánh nặng thuế má và nhân lực buộc phải đóng góp cho cả hai bên. Một số nơi xảy
ra tình trạng thiếu lương thực và nạn đói, nhưng vấn đề được giảm bớt nhờ viện
trợ lương thực từ khối Liên Xô.
Trớ trêu là nhiều
khó khăn kinh tế lại do chính quyền cộng sản tự tạo ra. Cải cách ruộng đất đã
sát hại hàng chục ngàn người và làm gián đoạn sản xuất. Nó tạo ra căng thẳng và
hận thù giữa những người dân ở nhiều nơi và gây ra một cuộc nổi loạn ở một huyện
thuộc tỉnh Nghệ An.
Với sự hỗ trợ từ khối
Xô Viết, chính quyền Hồ Chí Minh bắt tay vào các kế hoạch đầy tham vọng nhằm tạo
ra một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước buộc hầu hết các doanh nghiệp tư
nhân phải từ bỏ tài sản của mình và tham gia vào các hợp tác xã. Tư nhân bị cấm
buôn bán nhiều loại hàng hóa. Hàng ngàn cư dân thành thị được khuyến dụ và di dời
về nông thôn để làm nông.
Năm 1958, miền Bắc Việt Nam bắt chước Trung cộng phát động một chiến dịch tập thể hóa nông nghiệp. Tất cả nông dân đều bị ép buộc giao nộp đất đai của mình và của tổ tiên để lại để tham gia vào các hợp tác xã. Nhưng sản xuất không được cải thiện mà lại giảm đi trong những năm sau đó. Năm 1962, nông dân ở các tỉnh nghèo đã bị đe dọa bởi nạn đói.
Vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vai trò chính của
ông không phải là quản lý các công việc hằng ngày, nhưng ông vẫn tích cực hoạt
động với tư cách là một chủ tịch nước và nhà ngoại giao, dẫn đầu các phái đoàn
ra nước ngoài để yêu cầu viện trợ. Ông cũng là người cổ vũ chính cho cuộc cách
mạng và chiến tranh ở miền Nam, viết các chuyên mục báo thường xuyên để kích động
tình yêu đối với Trung cộng và Liên Xô và lòng căm thù đối với Hoa Kỳ.
Biến chuyển trong mối
quan hệ với Trung cộng và Liên Xô
Mối quan hệ giữa Bắc
Việt Nam và hai nước anh em chính là Trung cộng cộng sản và Liên Xô đã thay đổi
đáng kể trong những năm 1950 và 1960. Vào những năm 1950, những người cộng sản
Việt Nam tin tưởng, phục tùng và tôn kính các nhà lãnh đạo Liên Xô và Trung cộng
như Joseph Stalin và Mao Trạch Đông. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi Liên Xô và Trung
cộng cộng sản "vừa là đồng chí vừa là anh em," xem Stalin và Mao là
những nhà lãnh đạo xứng đáng của phong trào cộng sản thế giới. Người cộng sản
Việt Nam nhất nhất tuân theo lời khuyên của họ, không cần thắc mắc.
Đối với chủ nghĩa cộng
sản thế giới, Stalin giống như giáo hoàng trong Giáo hội Công giáo, mặc dù
Stalin có lẽ còn có nhiều uy quyền hơn. Cái chết của ông vào năm 1953 là nguyên
nhân chính gây ra tình trạng hỗn loạn trong phe cộng sản. Nhà lãnh đạo Liên Xô
mới Nikita Khrushchev đã chỉ trích Stalin vì những sai lầm, sự tàn bạo và tệ
sùng bái cá nhân đối với Stalin. Khrushchev cho rằng phe cộng sản và phe tư bản
nên tránh đối đầu quân sự, chỉ nên cạnh tranh hòa bình trong việc phát triển
kinh tế. Ông chủ trương chính sách giảm căng thẳng với phương Tây để tránh chiến
tranh hạt nhân.
Trung cộng, Bắc Triều
Tiên, Albania và một số quốc gia cộng sản khác phản đối mạnh mẽ chính sách của
Khrushchev, và Liên Xô trừng phạt họ bằng cách hủy bỏ viện trợ. Giới lãnh đạo
miền Bắc Việt Nam bị chia rẽ giữa những người trung thành với Moscow (bao gồm cả
Chủ tịch Hồ Chí Minh) và những người bị thuyết phục bởi lập trường hiếu chiến của
Trung cộng (như Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và tướng Nguyễn Chí Thanh). Phe hiếu
chiến ở Bắc Việt Nam thắng thế vào năm 1963. Phe này bảo vệ Stalin, coi
Khrushchev là kẻ phản bội, và kêu gọi khối cộng sản tiếp tục duy trì chính sách
đối đầu với phương Tây nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc trên
toàn thế giới.
May mắn cho Bắc Việt
Nam, Khrushchev bị lật đổ vào năm 1964 và nhà lãnh đạo mới, Leonid Brezhnev, đã
ủng hộ miền Bắc Việt Nam khi bị Hoa Kỳ ném bom. Liên Xô và Trung cộng vẫn xung
đột và cạnh tranh với nhau giành quyền lãnh đạo phe cộng sản. Trung cộng gửi
nhiều viện trợ, có thể là nhiều hơn Liên Xô, cho miền Bắc Việt Nam, cũng như
đưa hàng trăm ngàn (hơn 300.000) binh sĩ sang giúp bảo vệ miền Bắc Việt Nam để
quân đội miền Bắc có thể xâm nhập vào miền Nam. Liên Xô đã gửi khoảng 5.000 cố
vấn và nhân viên kỹ thuật, trong khi Bắc Triều Tiên gửi sang vài trăm phi công
lái máy bay phản lực. Tổng cộng, viện trợ của Trung cộng và Liên Xô gần bằng những
gì miền Nam Việt Nam nhận được từ Hoa Kỳ.
Lý do miền Bắc Việt Nam tiến hành chiến tranh ở miền Nam
Sau Hiệp định Genève
năm 1954 chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam Bắc, với Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Chính phủ miền Nam mới được
Pháp giao trả quyền lực nên khá yếu ớt. Miền Bắc Việt Nam muốn tiếp thu miền
Nam Việt Nam để thống nhất đất nước và thiết lập chủ nghĩa cộng sản trên toàn
quốc.
Chính quyền miền Bắc
sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để làm mất ổn định Nam Việt Nam, đầu tiên với
việc ông Lê Duẩn không tập kết ra Bắc và tìm cách liên kết với các lực lượng
giáo phái chống lại Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Nhưng công tác này thất bại và Ngô
Đình Diệm thành công trong việc thu phục hay dẹp yên các lực lượng đó.
Sau đó chính quyền
miền Bắc Việt Nam yêu cầu tổ chức bầu cử nhưng chính quyền miền Nam từ chối vì
họ cho rằng không thể có bầu cử tự do dưới chế độ cộng sản. Không còn giải pháp
nào khác ngoài chiến tranh, nhưng Miền Bắc Việt Nam không thể đem quân vào đánh
miền Nam vì hai đồng minh chính của miền Bắc là Liên Xô và Trung cộng đều không
đồng ý. Liên Xô thậm chí còn đề nghị cả 2 nước Việt Nam là Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam gia nhập Liên Hợp Quốc cùng một
lúc để có hòa bình và ổn định, nhưng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ
đề nghị đó.
Năm 1957, các tổ chức
và đảng viên cộng sản còn cài lại ở miền Nam được cho phép vũ trang trở lại để
tự vệ và tấn công các chính quyền địa phương của Việt Nam Cộng hòa. Năm 1959,
miền Bắc Việt Nam bắt đầu đưa quân và vũ khí vào miền Nam để tiến hành chiến
tranh du kích. Miền Nam Việt Nam đã đáp trả và giành lại thế chủ động trên chiến
trường vào năm 1962.
Vào cuối năm 1963, ĐCS_VN
coi cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam là cơ hội
để mở rộng chiến tranh và chinh phục miền Nam Việt Nam. Tình hình quân sự bất ổn
ở miền Nam là cớ để Hoa Kỳ đưa quân vào Nam Việt Nam vào năm 1965. Nhiều học giả
cho rằng Hoa Kỳ chọn leo thang chiến tranh, nhưng thực tế là Hoa Kỳ chỉ phản ứng
lại quyết định leo thang trước đó của miền Bắc Việt Nam.
Môn học lịch sử ở Việt
Nam ngày nay
Ở Việt Nam ngày nay,
lịch sử là một công cụ tuyên truyền để phục vụ cho các mục tiêu chính trị của
chế độ. Phiên bản chính thức của lịch sử không phải là chủ đề để đặt câu hỏi hoặc
tranh luận. Trong các bài học lịch sử, chế độ nhận công lao về mọi thành công
trong khi hiếm khi thừa nhận bất kỳ sai lầm nào. Khoảng một nửa chương trình lịch
sử 2.000 năm của Việt Nam dành cho lịch sử và chính sách của Đảng Cộng sản từ
năm 1930 để tôn vinh vai trò của đảng này trong lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa cộng
sản được giảng dạy như một lựa chọn tất yếu đối với Việt Nam, là cách duy nhất
để Việt Nam giành được độc lập trong quá khứ và trở thành một quốc gia phát triển
trong tương lai.
Chiến tranh Việt Nam
được giảng dạy như một cuộc đấu tranh anh hùng chống lại nước ngoài xâm lăng,
chứ không phải là một cuộc nội chiến từ gốc rễ. Trong chiến tranh, Đảng Cộng sản
đã đưa ra các chính sách sáng suốt dẫn đến hết chiến thắng này đến chiến thắng
khác. Thiệt hại của chiến tranh thảm khốc trong gần hai thập niên ít được nói đến.
Các cuộc chiến tranh chống Pháp và Hoa Kỳ được dạy rộng rãi trong khi cuộc chiến
chống Campuchia và Trung cộng ít được nhắc đến. Nhìn chung, các bài học lịch sử
về những cuộc chiến tranh này chỉ nhằm mục đích hợp pháp hóa và biện minh cho sự
cai trị vĩnh viễn của Đảng Cộng sản.
Vũ Tường là giáo
sư giảng dạy ở Khoa Chính trị học, Đại học Oregon (Mỹ) từ năm 2008. Ông điều
hành Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ và là tác giả của nhiều công trình về lịch sử
và chính trị Việt Nam hiện đại.
Vũ Tường
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.