Xe không chạy trên sông sao
gọi xe đò?
Có lần tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa
hè trước Nhà Văn hóa quận Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong chiếc áo sơ mi cụt
tay, khuôn mặt ốm nhăn nheo màu bánh ít, mắt đăm chiêu sau cặp kiếng dày, ông
thủng thỉnh trả lời theo kiến giải của mình. Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng
chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba
mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi miền Tây. Thời ấy đường bộ
chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi
là xe đò cho tiện.
Xe đò lỡ Sài Gòn – Hốc
Môn năm 1969
Nghe vậy thôi, sau
này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe khách hoặc
xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam. Một số người giải
thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở
thành phương ngữ chung cho tiện. Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc
tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông
có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn Nam”: “…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một
đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để
người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người
rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ. Tôi còn
nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả
dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một
cái bánh bao to để ăn dọc đường. Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để
tìm kiếm khách…”.
Xe đò dài Thuận Hiệp
đi Sài Gòn – Cà Mau
Nhưng điều thú vị nhất
là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở
khách chừng hơn hai mươi người. Nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình
giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu
Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác
liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và
Ðông Nam Bộ. Giao thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều,
tạo thành thời vàng son của xe đò. Chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm
miền Nam, xăng dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số
hãng xe hoạt động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động. Sơn
Nam kể: “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu là than củi tràm, bỏ vào cái
thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than
tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi “Autogène”, theo
mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn”.
Xe đò Sài Gòn đến
Vĩnh Long năm 1970 đường sá còn trải đá
Hình ảnh chiếc xe đò
nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại từ năm 1975 đến
1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều biết rõ. Tôi từng đi loại
xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe phía sau là đều phải cẩn thận
với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở đuôi xe. Thường thì người ta chỉ
cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ xì từ giữa thập niên 50. Tuy giới
lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu.
Có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết, lơ xe phải dùng thanh sắt mở
lò đốt cời than. Hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng xóc, than văng ra khỏi cửa
thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực. Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy
phía sau tránh không kịp, cán phải cháy lốp xe. Xe đò hỏa tiễn chạy những đường
ngắn như Sài Gòn – Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long
An, còn xe đò dài vẫn chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước.
Trên
mui phía đầu xe thường có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi
chở hàng hóa, xe gắn máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.
Xe đò Sài Gòn – Tây
Ninh năm 1965
Tôi còn nhớ mãi lần
đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh. Năm đó tôi chín tuổi,
đi cùng với người anh bà con. Xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương
Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành phố Sài
Gòn-Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố. Phòng vé là một cái quầy hay
cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào. Riêng xe lô
không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác tài
chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng
bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách.
Xe lô chạy nhanh hơn xe đò
vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi
qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ. Ðể gió lùa vào cho hỉ hả
đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh,
bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường.
Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi hai bên đường, lòng cảm
thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng vì bị ngồi bó gối.
Xe đò nhỏ chạy bằng
than sau năm 1975
Nói là đi xe lô thì
hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ
như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân”
theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình. Sau năm 1968, cuộc chiến
ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy ổng” gài mìn phá hủy, có nơi phải
dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát. Ðường về
Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận.
Ði xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ
chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở
vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ
giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải
lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi. Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh,
ghế nằm thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe,
lại còn tặng thêm nước uống, khăn ướt lau mặt. Xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai
con sông Tiền và sông Hậu, tôi ngồi xe Mai Linh chạy một lèo về tới chợ Cà Mau
chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì
xe đò là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.
Bến xe đò Petrus Ký
năm 1950
Trước năm 1975, Xa cảng
miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh
đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp
lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh
Dương Vương quận Bình Tân. Còn bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung
và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là
Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng
Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng
yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay. Nhưng nghe đâu
hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q. 9 để
có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng. Sẽ thiếu sót nếu
không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước
– Bù Ðăng, Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả
ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.
Bến xe đò trên đường
Nguyễn Cư Trinh trước 1975
Ai cũng có kỷ niệm lần
đầu đi xe đò. Mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm. Có người nhớ chuyện
tiền vé như nhà văn Sơn Nam. Có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng
lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi. Cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi
xăng dầu giữa nắng gió miền Trung. Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa. Và cũng có
người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở
xa lắc xa lơ.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.