Trong
bài “Trung Cộng có đánh Việt Nam?” đăng kỳ trước, tôi nêu lên bốn lý do chính
khiến tôi đi đến kết luận là Trung Cộng sẽ không tấn công Việt Nam bằng các
biện pháp quân sự. Xin nói ngay: đó chỉ là một sự suy đoán. Lịch sử, nhất là
lịch sử chiến tranh, nhiều lúc đi ra ngoài, có khi ngược hẳn lại, lý trí con người.
Vào ngày 7 tháng 7 năm 1937 khi Nhật Bản xâm lược Trung Cộng hay ngày 1
tháng 9 năm 1939 khi Đức tấn công Ba Lan, rất hiếm người xem đó như là những
bước khởi sự cho chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Tuy
nhiên, chúng ta cũng có thể đặt vấn đề: Nếu Trung Cộng quyết định tấn công Việt
Nam
thì quyết định ấy đến từ đâu và trong những trường hợp nào? Hay nói cách khác:
những nguyên nhân nào có thể làm bùng nổ chiến tranh giữa Việt Nam và
Trung Cộng?
Theo
tôi, có bốn nguyên nhân chính:
Tàu
chiến Trung Cộng phóng tên lửa trong một cuộc tập trận ở Biển Đông
Thứ
nhất, nếu Trung Cộng thấy việc chiếm Biển Đông là điều tuyệt đối không thể nhân
nhượng. Xin lưu ý là việc Trung Cộng muốn độc chiếm Biển Đông có hai lý do
chính: Một là muốn làm chủ hoàn toàn một trong những con đường hàng hải quan
trọng nhất trên thế giới; và hai là muốn khai thác các mỏ dầu khí được tin là
rất lớn dưới lòng Biển Đông. Việc làm bá chủ con đường hàng hải có thể được
tiến hành lâu dài, trong nhiều năm hay nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, nếu việc thăm
dò dầu khí cho biết kết quả khả quan, Trung Cộng có thể thúc đẩy quá trình độc
chiếm Biển Đông nhanh hơn.
Trong trường hợp đó, họ sẽ không ngần ngại dùng vũ
lực để san bằng các thế lực chống đối.
Thứ
hai, khi Trung Cộng có khủng hoảng về chính trị. Hầu hết các nước độc tài, khi
tuyên chiến với nước khác, đều tuyên chiến khi họ đang ở thế yếu trước dân
chúng, đặc biệt khi tính chính đáng của chế độ đang bị đe doạ. Những lúc như
thế, người ta cần chiến tranh để, một là, khích động tinh thần quốc gia để đoàn
kết mọi người đứng sau lưng chính quyền; hai là, đánh lạc hướng sự quan tâm của
dân chúng: thay vì tập trung phê phán chính quyền, dân chúng sẽ đổ tất cả những
oán hận của họ vào một quốc gia khác. Ở Trung Cộng hiện nay, sự bất mãn của dân
chúng tuy khá lớn nhưng chưa trầm trọng đủ để thành một cuộc khủng hoảng. Những
điều kiện để tạo ra một cuộc khủng hoảng như thế là: kinh tế bị suy thoái; nạn
thất nghiệp tăng cao, khoảng cách giữa các tầng lớp giàu và nghèo thật lớn; ý
thức dân chủ và các tổ chức xã hội dân sự phát triển mạnh.
Khi nào những điều
kiện ấy chín muồi? Không ai có thể biết được. Nhưng khi chúng xảy ra, chiến
tranh với nước ngoài sẽ là một trong những biện pháp chính quyền Trung Cộng có
thể sẽ sử dụng để bảo vệ chế độ của họ.
Thứ
ba là khi Việt Nam
gây hấn với Trung Cộng trước. Thật ra, cho đến nay, chiến thuật Việt Nam sử
dụng trước những sự gây hấn ngang ngược của Trung Cộng là nhường nhịn và né
tránh mọi sự đối đầu. Tàu Trung Cộng cướp bóc hoặc đâm chìm các tàu đánh cá của
Việt Nam : Việt Nam
nhịn. Khi Trung Cộng mang giàn khoan HD-981 vào tận thềm lục địa Việt Nam , Việt Nam cũng chỉ chống cự bằng cách cho
tàu đánh cá và tàu cảnh sát biển chạy lòng vòng chung quanh và dùng vòi nước
xịt nhau chứ không huy động đến các tàu chiến. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là Việt Nam
có thể nhường nhịn mãi. Sự nhường nhịn bao giờ cũng có mức độ. Cái gọi là mức
độ ấy có hai khía cạnh: Một là mức độ của quốc gia và hai là mức độ của từng cá
nhân. Mức độ của quốc gia là khi giới lãnh đạo Việt Nam tuyên bố dứt khoát một lằn ranh
nào đó: vượt qua lằn ranh ấy, người ta sẽ ra lệnh nổ súng.
Hai là mức độ chịu
đựng của cá nhân: Không thể loại trừ trường hợp đứng trước sự khiêu khích của Trung
Cộng, một người bộ đội nào đó không thể chịu đựng được nữa và tự động nổ súng
cả khi chưa được lệnh. Đó là chưa kể Trung Cộng là sẽ chủ động khiêu khích để
những phản ứng nóng nảy như thế xảy ra hầu có cớ tấn công Việt Nam
một cách chính đáng trước dư luận quốc tế.
Thứ
tư là khi Việt Nam công khai và chính thức thiết lập liên minh quân sự với Mỹ.
Không có gì để hoài nghi nữa cả, một trong những thách thức lớn nhất mà Trung
Cộng phải đối diện trong những thập niên sắp tới là chính sách xoay trục về
châu Á của Mỹ. Trong chính sách ấy, Mỹ không những chuyển nhiều chiến hạm, tàu
ngầm và các loại khí tài chiến tranh khác đến châu Á mà còn mở rộng liên minh
phòng thủ với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Trung Cộng dễ dàng chấp nhận
các liên minh giữa Mỹ với Nhật Bản, Nam Triều Tiên và Philippines cũng như với
Singapore vì những liên minh ấy đã có từ lâu, hơn nữa, không trực tiếp ảnh
hưởng đến Trung Cộng.
Điều Trung Cộng ngại nhất chắc chắn là một liên minh quân
sự giữa Mỹ và Việt Nam .
Lý do đơn giản là, một, Việt Nam
nằm sát nách Trung Cộng; và hai, lãnh hải của Việt Nam trùng lắp lên con đường lưỡi bò
của Trung Cộng. Một thế liên minh quân sự giữa Mỹ và Việt Nam , do đó, sẽ
ảnh hưởng sâu sắc đến âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Chắc chắn Trung Cộng
sẽ tìm mọi cách để ngăn chặn việc liên minh ấy. Biện pháp ngăn chặn cuối cùng
là tấn công Việt Nam TRƯỚC khi liên minh ấy được hình thành.
Với
nguyên nhân thứ tư vừa nêu, chúng ta nhận ra ngay cái khó của Việt Nam: Một
mặt, không liên minh với Mỹ thì sẽ có nguy cơ bị Trung Cộng nuốt chửng; mặt
khác, việc liên minh ấy cũng có khả năng dẫn đến chiến tranh với Trung Cộng.
Giải quyết tình trạng tiến thoái lưỡng nan này là một trong những thách thức
lớn nhất của nhà cầm quyền Việt Nam
hiện nay.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.