Cô Marip Lu ngồi trong nơi trú ẩn của gia đình cô trong một trại tị nạn ở phía bắc Bang Kachin, Miến Điện, hôm 21/03/2018. Cô Marip Lu, 24 tuổi, cho hay cô đã bị bắt cóc bởi những kẻ buôn người và phải chịu sáu năm bị giam cầm, hãm hiếp, và lạm dụng sâu trong lãnh thổ Trung cộng.
Một khi những người phụ nữ bị bắt cóc rồi bị bán đến những ngôi làng nghèo nàn để làm dâu, họ sẽ không chỉ phải đối mặt với sự áp bức của gia đình nhà trai (bên mua), mà thậm chí còn là sự áp bức của dân làng — một cộng đồng nhỏ những người đồng lõa trong việc giam giữ họ.
Thế nhưng, những người dân làng ấy, lại không coi những gì họ đang làm là một tội ác.
Nhiều phân tích đổ lỗi cho ngành công nghiệp buôn người Trung cộng vì nỗi thống khổ của bà mẹ tám con ở Từ Châu. Nhiều người bị mắc kẹt trong định kiến là mấy người nông dân ở Trung cộng đều chất phác giản đơn và cần cù lao động, nhưng mấy ai nghĩ được rằng một khi những người phụ nữ này bị bắt cóc rồi bị bán đến những ngôi làng nghèo nàn để làm dâu, họ sẽ không chỉ phải đối mặt với sự áp bức của gia đình nhà trai (bên mua), mà thậm chí còn là sự áp bức của dân làng — một cộng đồng nhỏ những người cùng hội cùng phường đồng lõa trong việc giam giữ, trói buộc người phụ nữ này. Thế nhưng, những người dân làng ấy, lại không coi những gì họ đang làm là một tội ác.
Một khi phụ nữ bị bán đi làm dâu, sẽ không thể trốn thoát
Có hai bộ phim Trung cộng cung cấp cho người xem một kiến giải sơ bộ về cách các cộng đồng nông thôn đã phát triển và trở thành điều cấm kỵ nghiêm trọng của ĐCSTC.
Một là bộ phim “Núi Mù” (Blind Mountain) được công chiếu tại rạp vào năm 2007, và bộ còn lại là phim giáo dục về pháp luật có tên là “Nữ sinh đại học bị bắt cóc rồi bị bán làm dâu” được đài truyền hình trung ương CCTV phát sóng vào năm 2018.
Lời thoại và cốt truyện trong chương trình này của CCTV phần nhiều là vay mượn từ bộ phim Núi Mù, nhưng họ thêm vào hai nhân vật hư cấu: một vị là em họ, tên là Hải; còn vị kia là anh họ, làm cảnh sát — cả hai đều là anh em con nhà chú bác của nhà trai. Hải cảm thông với cô gái và tìm cách giúp cô bỏ trốn nhưng không thành; còn vị cảnh sát kia đã làm việc trượng nghĩa, trừng phạt người mua.
Phim “Núi Mù” lấy cốt truyện dựa trên trải nghiệm thực tế của một người có tên là Trịnh Tú Lệ (Zheng Xiuli).
Tôi đã xem bộ phim và nghiên cứu về những khổ nạn thực tế mà cô Trịnh đã nếm trải. Sau khi đọc nhiều trường hợp tương tự, tôi có hiểu biết nhất định về cách các cộng đồng nhỏ ở địa phương hình thành mạng lưới đồng phạm khi một phụ nữ được mua về làm dâu.
Việc tiếp tay này được dân làng địa phương thực hiện nhằm ngăn không cho những người con dâu (đã được mua) này bỏ trốn.
Chương trình của CCTV đã cố tình bỏ qua sự thật rất quan trọng này, thay vào đó là miêu tả những người phụ nữ bị bắt cóc này thành như những trường hợp cá biệt hoặc là tội ác do một số ít những người nông dân nghèo khổ gây nên. Trên màn ảnh nhỏ hiển thị một khung cảnh cuộc sống nông thôn dưới thời ĐCSTC với những điền viên khang trang, những sân vườn sạch sẽ, ngăn nắp, nhiều nhà còn có cả xe hơi.
Phim “Núi Mù” chứa đựng tất cả những yếu tố về số phận bi thương của một người phụ nữ bị bắt cóc rồi đem bán, nhưng vẫn tốt hơn so với hoàn cảnh của bà mẹ tám con ở Từ Châu ở chỗ: bà chủ yếu bị cưỡng hiếp và lạm dụng bởi người chồng, và trở thành nô lệ tình dục của nhiều người đàn ông trong làng.
Trịnh Tú Lệ, một cô gái trẻ đến từ vùng Đông Bắc Trung cộng, đã có một cuộc đời đau khổ tang thương hơn nhiều so với cuộc đời của [nhân vật chính] trong phim.
Cô Trịnh Tú Lệ đã đi xuống phía Nam đến Chu Hải để làm việc sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng năm 1994. Cô bị bọn buôn người đóng giả là người môi giới việc làm bắt cóc đến thôn Hoa Bình cách đó gần 200 dặm, và bán cô với giá 3,000 nhân dân tệ (431.88 USD) cho một nông dân 49 tuổi tên là Quách Mỹ Nam.
Vào đêm mà cô Trịnh đến nhà ông Quách, cô đã chờ thời cơ đến để chạy trốn, nhưng cả làng đã tập hợp lại để bắt cô, và vì vậy cô đã bị gia đình nhà ông Quách đánh đập thậm tệ. Đêm đó, với sự giúp đỡ của anh trai và chị dâu của ông Quách, ông đã cưỡng hiếp cô Trịnh Tú Lệ.
Cô Trịnh đã cố gắng trốn thoát nhiều lần, cho đến khi cô chợt nhận ra rằng tất cả mọi người xung quanh mình đều là đồng phạm, tiếp tay trong việc giam giữ cô. Trong hai năm sau đó, cô Trịnh Tú Lệ đã sinh hai người con.
Cuối cùng, vì không thể chịu đựng được cảnh bị lạm dụng thậm tệ hơn nữa, và bị dồn đến bước đường cùng, cô Trịnh đã tạt acid sulfuric vào cả hai đứa con của anh trai ông Quách, và làm năm em học sinh khác bị thương.
Điều mà Trịnh Tú Lệ chờ đợi không phải là sự giải cứu, mà là sự bắt giữ của cảnh sát.
Cuối cùng, cô bị tuyên án tử hình về tội cố ý gây thương tích, vốn đã được tạm hoãn (cho hưởng án treo).
Một số người nói rằng nhà biên kịch Lý Dương (Li Yang) hy vọng bộ phim này sẽ giúp khơi dậy sự chú ý của xã hội về số phận bi thảm của những phụ nữ bị bắt cóc.
Vì cớ gì dân làng lại trở thành đồng phạm?
Một người phụ nữ đoàn tụ với đứa con trai bé bỏng mới sinh của mình bị chính bác sĩ đỡ đẻ bán tại một bệnh viện ở huyện Phú Bình, tỉnh Sơn Tây, miền trung Trung cộng vào ngày 05/08/2013. Nhiều trường hợp như vậy đã được báo cáo trên khắp Trung cộng trong những năm gần đây.
Câu chuyện đau thương của cô Trịnh Tú Lệ và bà mẹ tám con ở Từ Châu phản ánh những vấn đề vượt ra khỏi phạm vi mua bán phụ nữ. Người ta tự hỏi tại sao họ không thể trốn thoát.
Hồi tôi còn ở Trung cộng, tôi nhớ mình từng đọc những bài báo, trong đó mô tả chi tiết về một vụ bắt cóc. Cảnh sát địa phương phải đột kích vào một ngôi làng lúc nửa đêm. Nếu không, họ sẽ bị bao vây bởi đám đông dân làng và nhiệm vụ sẽ thất bại. Cảnh sát đến để giải cứu, chứ không phải để tạo thành một sự kiện quần chúng.
Vì vậy, hãy xem tại sao dân làng lại đoàn kết để chống lại hành động [giải cứu] của cảnh sát.
Ở vùng nông thôn hẻo lánh của Trung cộng, việc đàn ông lấy được vợ là không hề dễ dàng. Nói chung, phụ nữ không ai muốn lấy chồng ở các vùng nghèo khó, và nhiều nông gia sẽ đổi con gái ruột của mình để lấy con dâu (theo tập tục cổ xưa là “hoán đổi cha mẹ”). Những người không có con gái [để hoán đổi] phải tốn hàng ngàn tệ, thậm chí hàng chục ngàn tệ để có được một cô con dâu. Khoản chi này sẽ làm tiêu hao toàn bộ gia tài vật lực của gia đình. Do đó, những cô dâu được mua về sẽ được coi như tài sản mà cả gia đình người mua phải trông coi rất nghiêm túc.
Ngày nay, làng quê Trung cộng đã trở thành một cộng đồng cùng chung lợi ích, cho dù đó là những ngôi làng của một dòng tộc hay những ngôi làng của nhiều dòng tộc. Những làng quê nghèo đầy rẫy đàn ông lớn tuổi còn độc thân, những người tìm vợ thông qua những kẻ buôn người. Để bảo vệ tài sản mà họ đã mua, dân làng tuân theo một quy luật bất thành văn để tạo thành một hệ thống ngăn [không cho cô dâu trốn thoát]. Ví dụ, họ sẽ thông báo cho người mua nếu họ biết được người phụ nữ bị bắt cóc có ý định bỏ trốn; khi cảnh sát đến, họ giấu người phụ nữ bị bắt cóc; và khi cần thiết, họ xúm vào ngăn cản những nỗ lực giải cứu của cảnh sát.
Đừng mong bí thư chi bộ của thôn đứng ra đấu tranh cho công lý và chính nghĩa. Vì vị bí thư chi bộ thôn này cũng là một người dân trong làng, nên tất nhiên phải chăm lo bảo vệ cho lợi ích của dân làng mình chứ!
Ngoài ra còn có một bộ phim năm 2006, có nhan đề “Câu chuyện về Người phụ nữ bị Bắt cóc”, dựa trên câu chuyện có thật về cô Cáo Diễm Mẫn (Gao Yanmin), một phụ nữ bị bắt cóc và bị gả bán cho một người đàn ông ở thôn Hạ Ngạn, tỉnh Hà Bắc. Dân làng tỏ ra thù địch với những phóng viên cố gắng phỏng vấn cô Cáo Diễm Mẫn sau khi câu chuyện của cô được công khai. Họ đổ lỗi cho cô Cáo vì đã vạch trần hành vi mua cô dâu của dân làng và hủy hoại danh tiếng của làng. Bí thư thôn hỏi một phóng viên đến phỏng vấn: “Làng này còn hơn 60 người ế vợ, các anh có cách nào giải quyết không?”
Theo UNICEF (Quỹ Khẩn cấp Nhi đồng Quốc tế Liên Hiệp Quốc), nếu không có biện pháp can thiệp, tỷ số giới tính khi sinh nằm trong khoảng từ 103 đến 107 trẻ sơ sinh nam trên 100 trẻ sơ sinh nữ. Hiện tượng muốn sinh con trai nối dõi ở vùng nông thôn Trung cộng là rất nghiêm trọng, điều này càng làm trầm trọng hóa việc mất cân bằng giới tính. Năm 2004, Trung cộng ghi nhận tỷ lệ sinh là 121 bé trai trên 100 bé gái; vào năm 2019, tỷ lệ này vẫn duy trì ở mức 112 bé trai trên 100 bé gái. Theo một cơ quan ngôn luận của ĐCSTC, 30 năm nữa, đàn ông Trung cộng ước tính nhiều hơn phụ nữ khoảng 30 triệu người.
Vùng nông thôn Trung cộng, nơi cư tụ của phần lớn đàn ông độc thân, có nhu cầu mua vợ rất lớn. Đây là bối cảnh xã hội của hiện tượng bắt cóc và buôn bán phụ nữ nghiêm trọng ở Trung cộng. Cùng với việc coi thường nhân quyền phổ biến của nhà cầm quyền, thì quyền của phụ nữ càng dễ bị vi phạm, và vì thế, hiện tượng mua bán phụ nữ bị bắt cóc sẽ còn tiếp diễn ở vùng nông thôn Trung cộng. Nếu như chính phủ cứ mặc nhiên buông thả chuyện này như vậy, thì nạn buôn bán phụ nữ sẽ càng trở nên trầm trọng hơn.
Dưới sự cai trị của ĐCSTC, nông thôn phát triển theo kiểu vật chất hóa
Hơn 20 năm trước, trong cuốn sách “Cạm bẫy của Trung cộng” của mình, tôi đã dùng bốn chữ “xã hội bại hoại” đạo đức để tóm tắt hết thảy những gì đang xảy ra ở Trung cộng. Từng cộng đồng nhỏ, từng cộng đồng nhỏ được hình thành từ nạn buôn người, khiến cho vùng nông thôn Trung cộng trở thành tâm chấn của sự bại hoại đạo đức nghiêm trọng nhất. Suy cho cùng, sự bại hoại đạo đức này là kết quả của sự thất bại trong cải cách ruộng đất của ĐCSTC sau khi họ lên nắm quyền. Thông qua một loạt các phong trào cải cách ruộng đất, ĐCSTC đã phá hủy hoàn toàn hệ thống thị tộc thống trị quyền tự trị của làng xã, một hệ thống cổ xưa trước năm 1949; sát hại tất cả những người trí thức và giới quý tộc địa phương từng cai quản hệ thống này; thay vào đó, họ áp dụng hệ thống công xã nhân dân, trong đó các xã được điều hành bởi các băng cướp và băng đảng xã hội đen.
Một người đàn ông đọc Luật Cải cách Ruộng đất của ĐCSTC cho nông dân vào năm 1950. Mục đích là kích động lòng căm thù giai cấp chống lại địa chủ và sử dụng những người được cho là đã bị tước quyền để thực hiện một cuộc cách mạng bạo lực. Chiến dịch dẫn đến việc sát hại hàng loạt địa chủ, khiến hàng trăm ngàn người mất mạng.
Cải cách xây dựng nông thôn mới dưới thời ĐCSTC tập trung vào [phát triển] cơ sở hạ tầng vật chất, và không liên quan gì đến văn minh hay nhân loại. Trong cuộc họp năm 2005 của cơ quan lập pháp bù nhìn của mình, chính phủ đã đề nghị xây dựng một nông thôn xã hội chủ nghĩa: thúc đẩy sản xuất, phát triển, quản lý, xây dựng, cơ giới hóa, và tiêu chuẩn hóa nông nghiệp. Năm 2021, khi ông Tập Cận Bình nhấn mạnh xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa trở nên “tươi đẹp hơn và đáng sống hơn”, thì trọng tâm vẫn đặt vào phương diện vật chất.
Sau khi vụ việc của bà mẹ tám con ở Từ Châu bị phanh phui, chính quyền địa phương đã đáp lại dư luận phẫn nộ bằng một thông báo nói rằng cái gọi là “gia đình” này đã nhận được trợ cấp và bảo hiểm y tế từ tháng 05/2014, trợ cấp xây dựng lại nhà ở từ chính phủ vào năm 2021, cũng như nhận được nhiều đóng góp từ thiện từ xã hội. Tuy nhiên, không đề cập đến việc người phụ nữ bị trói bởi một sợi dây xích dùng để xích loài cẩu thú trên cổ, người đã bị cưỡng hiếp tập thể bởi ba người đàn ông trong gia đình của người mua.
Đây là nông thôn mới xã hội chủ nghĩa mà nhà cầm quyền đã và đang xây dựng. Quyền của phụ nữ đã bị lạm dụng trong một xã hội Trung cộng bại hoại đạo đức.
Bà Hà Thanh Liên (He Qinglian) là một tác giả và nhà kinh tế học nổi tiếng của Trung cộng. Hiện đang làm việc tại Hoa Kỳ, bà là tác giả của cuốn “China’s Pitfalls” (“Cạm Bẫy của Trung cộng” ), liên quan đến tham nhũng trong việc cải tổ kinh tế của Trung cộng vào những năm 1990 và cuốn “The Fog of Censorship: Media Control in China” (“Sương Mù Kiểm Duyệt: Kiểm Soát Truyền Thông ở Trung cộng”), đề cập đến việc thao túng và hạn chế báo chí. Bà thường xuyên viết về các vấn đề kinh tế và xã hội đương đại của Trung cộng.
He Qinglian _ Hoàn Nguyên
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.