Ngày thứ bảy
15/3/2025, các nhân viên làm việc cho các đài phát thanh Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA
và đài Á châu Tự Do RFA khi tới sở đã nhận được lệnh nghỉ hành chánh, phải ra về
và nộp lại thẻ báo chí. Báo chí cho biết đây là khởi đầu cho tiến trình phẹc mê
bu tích các đài phát thanh này. Giám đốc đài VOA Michael Abramowitz lập tức ra
tuyên bố: “Tôi vô cùng đau lòng khi lần đầu tiên sau 83 năm, đài VOA lừng lẫy
không được phép lên tiếng.
Sáng nay tôi mới hay tin gần như toàn bộ nhân viên VOA, hơn 1.300
nhà báo, nhà sản xuất và nhân viên bị cho nghỉ hành chánh. Tôi cũng không phải
ngoại lệ”. Ngoài đài VOA, đài Á Châu Tự Do RFA cũng cùng chung một số phận.
Đài Á châu Tự Do là
một đài phát thanh tư nhân phi lợi nhuận, được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ nhằm
cung cấp thông tin, tin tức và bình luận trực tuyến cho thính giả tại Á châu.
Đài hoạt động bằng 9 thứ tiếng trong đó có tiếng Việt. Đài bắt đầu hoạt động từ
ngày 12/3/1996 với mục đích thúc đẩy và nâng đỡ tự do và dân chủ tới những người
dân ở các quốc gia châu Á, những nơi mà thông tin bị bưng bít.
Trên website của đài
VOA có phần tự giới thiệu như sau: “VOA là cơ quan truyền thông đa phương tiện
lớn nhất Hoa Kỳ, phổ biến thông tin qua hơn 45 ngôn ngữ đến độc giả những nơi
không có tự do báo chí hoặc tự do báo chí bị giới hạn. Các chương trình truyền
hình của VOA Tiếng Việt gồm: 5 chương trình tin tức VOA Express hằng tuần vào
sáng thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, và thứ bảy giờ Việt Nam, cập nhật thông
tin trung thực, đa chiều về tình hình Việt Nam, Hoa Kỳ, quốc tế”. Đải VOA đã hoạt
động từ ngày 1/2/1942.
Trước năm 1975, gia
đình tôi cũng như nhiều gia đình khác đều chăm chú nghe hai đài VOA và BBC để
biết được những thông tin xác thực về tình hình Việt Nam và thế giới. Ngày đó
dân Việt nghe hai đài phát thanh này thoải mái. Sự thoải mái này không còn sau
khi miền Nam bị rơi vào tay Cộng sản. Các đài “địch” này bị cấm nghe nhưng cấm
thì cấm, người dân chúng tôi vẫn ghé tai vào máy thu thanh vặn nhỏ hàng ngày.
Ngay trong thời bị tù cải tạo, chúng tôi vẫn có cách nghe lén đài VOA để lên
dây cót sống qua những ngày tù đầy nhọc nhằn. Dân ta quen hơi đài VOA như nuốt
từng nhịp thở của tình nhân. Ngày đó chưa có đài RFA.
Với đài RFA, tôi chỉ
có chút thân tình khi ông bạn Nguyễn Minh Diễm có thời làm Giám đốc ban tiếng
Việt của đài này. Dính dấp của tôi với đài VOA coi bộ nhộn nhịp hơn.
Năm 1967, tôi qua Mỹ
dự hội thảo chuyên ngành trong ba tháng. Cưỡi máy bay PanAm từ Sài Gòn, ghé nghỉ
ở Hawaii, tới San Francisco, tôi được ngụ tại khách sạn Hilton một tối để hôm
sau bay qua thủ đô Washington D.C. Chân ướt chân ráo tới thủ đô vào khoảng 9 giờ
tối, tôi đói bụng đi tìm nhà hàng kiếm cái chi ăn. Chẳng nhà hàng nào còn mở cửa.
Thấy có cái tiệm tiện ích còn mở, tôi ghé vào mua hộp sandwich lạnh và một chai
nước cam ăn cho qua cơn đói. Đang ngồi cố nuốt cho nhanh thì cánh cửa tiệm mở,
bước vào là một người Á châu. Tôi nhìn ra và sững người. Ông kia cũng ngạc
nhiên, vội tới vỗ vai tôi hỏi: “Sao lại ở đây?”. Đó là ông bạn học cùng lớp ở
Chu văn An ngày trước có tên Lê Lai mà chúng tôi thường chọc là “Lê Lai Cứu
Chúa”. Nhìn chiếc bánh sandwich tôi đang gặm dở, nói tiếp: “Ăn chi mà khô khan
vậy?” Tôi cho biết tôi vừa từ Việt Nam tới D.C. không kiếm được tiệm nên ăn tạm
chống đói. Ông lệnh cho tôi: “Bỏ đó! Đi với tớ!”. Hai người ra chiếc xe Mustang
đi ăn rồi ông bonus cho tôi một cuốc xe đi ngắm phố phường thủ đô nước Mỹ. Ông
Lê Lai lúc đó chưa là ông Lê Văn, trưởng ban Việt ngữ đài VOA sau này.
Nơi tôi dự phần đầu
hội thảo tại Washington D.C. nằm trong một building rộng lớn. Trụ sở ban Việt
Ngữ đài VOA cũng nằm trong tòa nhà này. Buổi trưa đầu tiên, tôi xuống ăn ở
cantin trong giờ nghỉ. Mấy bộ mặt Á châu nhìn tôi chăm chú. Chắc thấy mặt lạ
chưa nhả hết cái nắng Sài Gòn. Một bà đứng tuổi tới hỏi dò: “Việt Nam hả?”. Tôi
vui mừng nhận đồng hương. Đó là bà T. làm cho đài VOA. Chuyện trò một hồi, bà gạ
tôi cho bà phỏng vấn cho đài VOA. Chúng tôi thân nhau ngay. Mỗi cuối tuần, bà
chở tôi về nhà đi dạo phố phường, đi shopping, đi ăn uống. Bà sống với bà chị
ruột, chị C. và đứa cháu trai con bà này. Khi đó là giữa tháng 12, khắp nơi
vang lừng nhạc thánh ca. Các cửa hàng bán đồ chưng Noel nườm nượp khách hàng.
Bà nói với tôi chỉ thèm một cái hang đá kiểu Việt Nam. Tôi cho bà biết làm hang
đá là nghề của chàng từ hồi còn làm chú bé giúp lễ trong nhà thờ. Bà xin tôi
làm cho bà một hang đá…quê hương. Tôi cùng bà đi mua giấy, tre, màu và đèn. Chỉ
trong vài tiếng tôi đã hoàn thành…tác phẩm quê hương nơi hải ngoại. Bà T. vui mừng.
Mới cách đây hai năm, tôi xin được số điện thoại của bà qua một anh bạn làm ở
đài VOA, gọi cầu âu. Bà đã ở nhà già, tai nghe đã khó khăn, nhưng vẫn nhớ cái
hang đá rất Việt Nam ngày đó.
Năm 1985, sau đúng
chục năm sống khắc khoải với cộng sản, tôi định cư tại Montreal. Tất bật chuyện
áo cơm tôi chìm trong im lặng. Khoảng gần một năm sau, tôi liên lạc được với
anh bạn cùng lớp ở Chu văn An xưa, anh Dzương Ngọc H.. Anh đang làm ở đài VOA.
Đúng lúc đó, đài VOA đang tuyển người, anh rủ tôi thi tuyển để “chúng mình lại
ngày ngày gặp nhau như thời còn học Chu văn An và Văn Khoa”. Đang lông bông
trong công việc tạm bợ nuôi gia đình, tôi hào hứng OK liền. Anh gửi qua cho tôi
đơn xin thi nói tôi điền gấp gửi qua anh nộp ngay trước ngày hết hạn. Anh mách
trước cho tôi biết thể thức thi cử, nhấn mạnh sẽ phải đánh máy khi dự thi. Chuyện
này tôi khá lọng cọng. Khi làm công chức bên Việt Nam, tôi có bao giờ sờ tới
chiếc máy đánh chữ. Chỉ viết tay và đưa cho thư ký đánh máy. Tôi nhất quyết phải
tập. Khổ nỗi kiếm đâu ra máy đánh chữ để tập bây giờ. Dọ hỏi mãi mấy người bạn
Việt Nam ở Montreal, tôi mới mượn được chiếc máy chữ xách tay cũ để đêm đêm,
sau khi đi làm về, ngồi mổ từng chữ cho quen.
Cuộc thi kỳ này sẽ
tuyển ba người nhưng số người dự thi trên toàn thế giới lên đến hơn 160 người.
Mỗi tòa Đại sứ hay Lãnh sự Mỹ tại các địa phương sẽ tổ chức thi. Nghe đã thấy
gay go. Nhưng cứ thử sức. Sau năm 1975, đi tù về, bị hành lên hành xuống. Nếu
không có công ăn việc làm vững chắc tại Sài Gòn thì gia đình sẽ phải đi kinh tế
mới. Hồi đó nghe tới kinh tế mới đã rùng mình. Nhiều người bị ép buộc rời Sài
Gòn đi kinh tế mới đã phải chạy về sống vất vưởng đầu đường xó chợ khi không chịu
được cảnh đem con bỏ chợ tại những vùng khỉ ho cò gáy tuyệt đường sinh sống. Tới
đường cùng, để chống kinh tế mới, tôi phải chui vào hội Trí Thức Yêu Nước để được
giới thiệu đi dậy học. Tôi được phân công dậy Anh văn cấp 3, thời trước gọi là
Trung Học Đệ nhị cấp, căn cứ vào bằng cấp Đại học Văn Khoa của tôi. Như vậy vẫn
sống thường xuyên với tiếng Anh nhưng làm đài phát thanh dính dáng tới tiếng
Anh thì coi như tôi đã bù trất, không còn thường xuyên như khi làm báo tại Sài
Gòn trước đây. Mười năm không được làm báo, không dùng tới tay viết, coi như
nghề đã lụt. Khi biết tiến trình cuộc thi, tôi chán nản coi như đi thi cho có.
Chẳng lẽ giơ cờ trắng khi chưa xung trận? Vậy là một ngày xin nghỉ làm, tôi leo
lên xe buýt, ôm hai cuốn từ điển Anh – Việt và Việt – Anh cũ nát mang từ Sài
Gòn qua, tôi lên đường trực chỉ tòa Lãnh sự Mỹ tại Montreal, nằm trong khu phức
hợp Complexe Desjardin nằm tại trung tâm thành phố ứng thí.
Cuộc thi gồm nhiều
phần, hệt như một ngày làm việc tại đài. Trước hết là thi dịch tin tức. Họ ném
cho một đống bản tin tiếng Anh vừa cũ vừa mới, dịch càng nhiều càng tốt trong một
tiếng đồng hồ. Không nháp nhiếc chi, mà cũng thời giờ đâu mà làm nháp. Cứ nhìn
bản tiếng Anh, gõ máy đánh chữ ra tiếng Việt. Sở dĩ họ trộn lẫn các tin mới và
cũ để thí sinh không đoán mò được mà phải hiểu tường tận bản tin. Tôi đánh máy
như điên, chỉ thỉnh thoảng phải tra từ điển những từ mới. Khổ nỗi, từ điển thì
cũ đâu có những chữ mới nên nhiều khi bù trất. Tôi còn nhớ đã khựng lại khi gặp
những từ viết tắt của chỉ số chứng khoán. Đành đoán mò, ra sao thì ra! Bài thi
này để đo tốc độ dịch nhanh của thí sinh.
Xong bài dịch tin tức,
tới bài nghị luận. Họ đưa cho một bài bình luận của đài bằng tiếng Anh, dịch ra
tiếng Việt. Tưởng là dễ vì không phải chọn lựa chi, chỉ việc dịch, nhưng nhiều
danh từ “nghiêm nghị” phải tra từ điển như điên. Bài thi này chú trọng tới cách
dùng từ ngữ.
Bài cuối cùng gọi là
“features”. Tôi nhận được một đống tài liệu tiếng Anh về một vấn đề. Phải đọc
nhanh rồi viết thành một bài. Chuyện này tôi làm hà rầm khi viết cho tờ bán
nguyệt san Thời Nay tại Sài Gòn nên không bỡ ngỡ lắm.
Xong ba bài thi viết,
tới phần thi đọc để họ chấm giọng đọc. Tôi được đưa vào phòng vi âm. Giọng tôi
khá trầm và ăn micro nên cũng vững tâm. Họ trả lại ba bài viết để đọc. Khi đọc
tin tức phải có giọng rõ ràng, đọc bình luận phải có giọng chững chạc, nhấn đâu
ra đó. Nhưng khi đọc bài feather thì khác, phải đọc giọng vui tươi, thanh
thoát. Đọc xong, trả lại ba bài viết cho họ và ra về. Như trút được một gánh nặng.
Chẳng hy vọng chi
nhưng cũng khoan khoái vì được làm bạn lại với cây viết. Tôi coi như chuyện đã
xong, chẳng chờ, chẳng mong. Ngày 18/2/1987, VOA gửi cho tôi một cái “Notice of
Rating” trong đó thông báo tôi đậu. Họ viết nguyên văn như sau: “This is not an
offer of employment. It is a record of your rating. It is important that you
retain this for your records. If rated eligible, your name will remain active
in our inventory for an initial period of one year”. Phía dưới được đánh dấu X
vào chữ Eligible. Grade Level Score là GS-9. Tôi chẳng hiểu GS-9 là cái quái gì
nhưng biết là mình đã đậu. Đã điếu chi đâu! Vậy là mình sắp gia nhập vào gia
đình VOA. Tiếng nói của mình sẽ hàng ngày vọng về cố hương. Ông bà thân sinh và
các chị em còn kẹt lại sẽ ngày ngày được nghe giọng nói của đứa con xa xứ.
Nhưng như các cụ dạy: “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, trời không đứng về
phía tôi.
Ba người được tuyển
sẽ tăng cường cho lực lượng biên tập và xướng ngôn viên đài VOA. Nhưng đúng lúc
đó, đài VOA cắt buổi phát thanh trưa. Thường thì đài phát về Việt Nam ngày ba lần:
sáng, trưa và tối. Bây giờ cắt bớt phần phát thanh buổi trưa, số người tăng cường
không cần nữa. Họ cho tôi biết là tên tôi nằm trong danh sách chờ. Chờ có người
về hưu thì thế vào. Chẳng hiểu sao các ông bà thợ nói hăng say nói thế. Chờ hết
một năm chẳng thấy ông bà nào o-rơ-lui. Tôi nhận được lá thư…an ủi. Nếu được nhận
vào làm bây giờ, tôi sẽ vào loại GS này GS kia. Tôi thờ ơ. Cuộc sống tại
Montreal đã có phần ổn định. Các con tôi đã quen trường quen lớp. Đi cũng được
mà ở cũng xa-va. Hết một năm nữa, lại nhận được giấy an ủi. Hết ba năm chờ
mong, VOA gửi thư báo cho tôi biết là hạn chờ của tôi đã hết, muốn tiếp tục thì
thi lại. Cha mẹ ơi, đời tôi đã qua nhiều lần thi cử, lần nào cũng đau tim muốn
chết. Thi chi nữa. Tôi dẹp chuyện voa viếc cho thanh thản tấm thân đã toan về
già.
Nhưng duyên nợ với
VOA chưa hết. Khi VOA mở mục blog, ông bạn Nguyễn Xuân Hoàng nhận một mục tên
“Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn Hữu”. Mỗi tuần phải có một bài. Ông ấy kham không nổi
bèn cầu cứu bạn bè. Vài tuần tôi lại nhận được mail của ông: “Mày cứu bồ cho
tao một bài gấp!”. Vậy là tôi lại dính lằng nhằng với VOA.
Nay, trong lúc VOA
đang hấp hối, tuy chỉ dính với VOA vòng ngoài, tôi cũng cảm thấy nhoi nhói
trong tim. Như một lần chia tay người tình lỡ!
Song Thao