Là thành viên nội
các của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng đã
chứng kiến nhiều chuyển động quan trọng của Sài Gòn trước ngày 30/4.
Những ngày cuối cùng
trước khi Sài Gòn thất thủ đã được ghi lại bằng hai cuộc họp tối mật ở cấp cao
nhất, cách nhau đúng sáu ngày – một tại Dinh Độc lập, một tại chiến khu của
Quân ủy miền Nam.
Hai cuộc họp này, với
nội dung tương phản hoàn toàn, đã phản ảnh sự bất cân xứng về tiềm lực quân sự
và hậu cần vào thời điểm định mệnh.
Ngày 1/4/1975 – Cuộc
họp tại Dinh Độc lập
Chỉ hai ngày sau khi
mất Đà Nẵng (29/3/1975), Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập một cuộc họp khẩn
cấp với các tướng lĩnh cấp cao nhất, gồm Đại tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham mưu
trưởng), Trung tướng Đặng Văn Quang (Cố vấn Quân sự), Trung tướng Đồng Văn
Khuyên (Chỉ huy Tiếp vận). Mục tiêu buổi họp là để bàn cách tái tổ chức lực lượng:
chọn một số đơn vị Địa phương quân để lập thành hai sư đoàn bộ binh nhằm cầm cự
được lâu hơn, giúp có được một cái thế để điều đình.
Tuy là một cuộc họp
về quân sự, chúng tôi cũng được mời tham dự với tư cách tổng trưởng kế hoạch và
là người điều phối viện trợ về mặt vĩ mô.
Sau phần trình bày về
tình hình chiến sự, Tổng thống Thiệu quay sang hỏi trực tiếp Đại tướng Viên:
"Hiện giờ này, đạn
dược thực sự còn bao nhiêu?"
Câu trả lời khiến cả
phòng họp chìm trong im lặng:
"Thưa Tổng thống,
đạn trong cả bốn kho dự trữ chỉ còn đủ cho 14 đến 20 ngày."
Tôi nhìn thấy nỗi buồn man mác, sự chua cay, xót xa trong ánh mắt người lãnh đạo miền Nam. Không còn gì rõ ràng hơn để báo hiệu một thực tế phũ phàng: cuộc chiến đã gần đến hồi kết và quân đội miền Nam hoàn toàn cạn kiệt phương tiện để chiến đấu.
Ngày 7/4/1975 – Cuộc
họp tại chiến khu Quân ủy miền Nam
Chỉ sáu ngày sau,
phía Bắc Việt cũng có một cuộc họp ở chiến khu Quân ủy miền Nam để thẩm định
tình hình đạn dược trước giai đoạn cuối của chiến dịch tổng tấn công. Đại tướng
Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến trường, ghi lại trong hồi ký ký Đại thắng Mùa
xuân (trang 184-185):
"Khi bàn đến vấn
đề bảo đảm hậu cần, đồng chí Phạm Hùng (Chính ủy Chiến dịch) hỏi tình hình đạn
dược của ta chuẩn bị đến đâu rồi, đồng chí Đinh Đức Thiện (Phó tư lệnh, Chủ nhiệm
Tổng cục Hậu cần) đưa ra bản thống kê số đạn đã nhận được, và số đạn đang chở
từ 'các nơi' đến và nói:
"Xin báo cáo với
các anh là đạn của ta đủ bắn để nó sợ tới ba đời."
Cùng trong buổi họp,
ông Lê Đức Thọ – người từng đại diện Bắc Việt để ký Hiệp định Paris – tỏ rõ sự
phấn khởi. Ông nói:
"Chúng có 5 sư
đoàn, ta có 15 sư đoàn, chưa kể các lực lượng dự bị chiến lược khác. Như vậy chỉ
cho phép chúng ta đánh thắng. Đó là ý kiến của Trung ương." (trang 186) Rồi
ông khích lệ các quân đoàn: "Tình hình đối với ta rất thuận lợi, khả năng
rất dồi dào, ta phải nắm lấy thời cơ, làm cho nhanh, làm cho chắc."
Báo cáo về đạn
dược và số quân của hai bên trong ngày tàn của cuộc chiến đã cho thấy
rõ tại sao Miền Nam không thể nào tránh khỏi ngày 30/4.
Bỏ rơi thế nào để
'coi cho được'?
https://www.youtube.com/watch?v=l-RmEHis7cE
Có nhiều nguyên nhân
– cả khách quan lẫn chủ quan – dẫn đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam. Nhưng
thật là cần thiết để lịch sử ghi lại cho trung thực những bằng chứng chính xác
về cái kết cục bi đát, bất công của VNCH, không thể để cho Henry Kissinger lấp
liếm, vì ông đã lừa dối tới một nửa thế kỷ rồi – như được chứng minh trong cuốn
sách Bức tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm (2024).
Sau ba thập niên
nghiên cứu, chúng tôi đã lần ra đầy đủ những bằng chứng về một chiến lược tinh
vi mang tên "Decent Interval" của Henry Kissinger – Cố vấn An ninh Quốc
gia và Ngoại trưởng Hoa Kỳ, một người tôi coi là "quan toàn quyền về ngoại
giao Hoa Kỳ dưới thời hai tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford".
Decent Interval – tạm
dịch là "khoảng thời gian coi cho được." Mục tiêu của chiến lược này
là làm sao ký kết được một hiệp định với Bắc Việt để Mỹ rút quân trong danh dự,
đưa 519 tù binh về nước và giữ thể diện cho nước Mỹ – bất chấp việc phải để lại
một VNCH bị bao vây, cô lập và cuối cùng là sụp đổ sau 1–2 năm.
Ông không chỉ thao
túng chính sách đối ngoại của Mỹ, mà còn âm thầm thỏa thuận với Liên Xô – thông
qua Đại sứ Anatoly Dobrynin – để phản bội nước Mỹ về Hiệp ước SALT (Tài giảm
binh bị).
Tại sao phải bỏ rơi
VNCH?
Câu trả lời nằm
trong một đoạn văn thẳng thắn đến lạnh người trong hồi ký White House
Years (Những năm tháng Nhà Trắng). Sở dĩ Kissinger muốn bỏ rơi miền Nam
(và Campuchia, Lào) vì ông cho rằng Đông Dương đã cản trở chính sách ngoại giao
của Hoa Kỳ, theo đó Trung cộng mới là quan trọng, còn Đông Dương thì chỉ là một
khu vực nhỏ bé, cho nên cần phải đẩy nó về đúng cái khuôn khổ nhỏ bé của nó.
Ở trang 1049 trong hồi
ký, Kissinger viết về việc mở cửa Bắc Kinh:
"Chúng ta cần Trung
cộng để tăng cường tính linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ...
Sáng kiến về (mở cửa) Trung cộng còn khôi phục được quan điểm của chúng ta về
chính sách của quốc gia.
"Sáng kiến này
thu nhỏ Đông Dương lại, để nó quay về đúng cái quy mô của nó – quy mô của một
bán đảo nhỏ bé trên một lục địa to lớn."
Từ cái nhìn ấy, Đông
Dương không còn là một tuyến đầu chống cộng, mà là một chướng ngại cần dẹp bỏ để
đạt được những thắng lợi chiến lược lớn hơn. Vận mệnh của cả một quốc gia, hàng
triệu con người, đã bị ông ta xếp vào vai trò "vật tế thần" cho chính
sách toàn cầu mới theo quan niện của mình.
Mùa hè năm 1972, khi
nước Mỹ đang chuẩn bị bước vào chiến dịch tranh cử tổng thống, Đảng Cộng Hòa dự
kiến tổ chức đại hội tại Miami, Florida để đề cử ông Nixon tái tranh cử. Một cuộc
họp kín giữa Nixon và Kissinger tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 3/8/1972 đã mang ý
nghĩa quyết định.
Nội dung cuộc họp –
còn được ghi lại trong băng ghi âm chính thức – cho thấy toàn bộ tinh thần của
chiến lược "Decent Interval". Nixon lo ngại rằng nếu để mất miền Nam
sau khi ký hiệp định thì uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị sụp đổ. Nhưng Kissinger đã trấn
an ông bằng một luận điệu đầy tính toán:
"Nếu một hay
hai năm kể từ bây giờ mà Bắc Việt nuốt trọn miền Nam thì chúng ta vẫn có thể
duy trì một chính sách ngoại giao khả tín, miễn sao nó được coi như là hậu quả
của sự bất tài của miền Nam."
Rồi ông kết luận một
cách tàn nhẫn:
"Vậy chúng ta cần
tìm ra một công thức để giữ cho tình hình yên ổn trong một hay hai năm. Sau đó,
thưa Tổng thống, Việt Nam sẽ trở thành một vũng nước đọng. Nếu chúng ta kết
thúc chuyện này, chẳng hạn vào tháng 10, thì đến tháng 1 năm 1974 sẽ chẳng còn
ai quan tâm quái gì nữa (no one will give a damn)."
Lời nói ấy – "no
one will give a damn" – không chỉ là sự lạnh lùng vô cảm, mà còn là lời
phán xét lịch sử. Nó cho thấy, đối với Kissinger, toàn bộ cuộc chiến tranh, máu
xương và hy sinh của hàng triệu người Việt Nam chỉ là một dấu chấm nhỏ không
đáng kể trong sách lược chính trị toàn cầu mà ông đang viết.
Theo nhà nghiên cứu
Jeffrey Kimball, Kissinger đã thực sự thuyết phục được Tổng thống Nixon vào
ngày 28/9/1972 rằng những gì ông đang thương lượng với Hà Nội không phải là một
hành động "bán đứng đồng minh" mà là một bước đi cần thiết để chấm dứt
chiến tranh và bảo vệ lợi ích lớn hơn của Hoa Kỳ.
Trớ trêu thay, ngày
28/9 ấy lại gần kề thời điểm quân lực VNCH tái chiếm Cổ thành Quảng Trị – một
chiến thắng mang tính biểu tượng cao độ. Khắp miền Nam lúc đó vang lên bài hát:
"Cờ bay, cờ
bay, oai hùng trên thành phố thân yêu…"
Khi VNCH lấy lại thế
chủ động trong chiến sự, thì ở Washington, định mệnh của miền Nam lại đang bị định
đoạt trong một căn phòng đóng kín – bởi những người từng hứa hẹn sẽ sát cánh đến
cùng.
Một bức thư và sự im
lặng
Ngay sau khi được Kissinger thuyết phục, Tổng thống Nixon đã viết thư cho Tổng thống Thiệu vào ngày 16/10/1972. Cuối thư, ông còn viết tay để khẳng định về Hiệp định Paris:
"Tôi tin chắc rằng
đây là giải pháp tốt nhất có thể đạt được và phù hợp với điều kiện tuyệt đối của
tôi là Việt Nam Cộng hòa phải được tồn tại như một quốc gia tự do."
Nixon thậm chí còn gạch
dưới chữ "absolute" (tuyệt đối) trong thư, như muốn trấn an đồng minh
rằng ông không lùi bước.
Như lịch sử đã diễn
ra, Hiệp định Paris được ký ngày 27/1/1973 không phải là nền tảng để cho Việt
Nam Cộng hòa được tồn tại như một quốc gia tự do.
Quốc hội Mỹ bị đánh
lừa
Do tin rằng chiến
tranh đã kết thúc và hòa bình được vãn hồi, Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu cắt giảm mạnh
viện trợ quân sự cho VNCH. Trong khi đó, khối xã hội chủ nghĩa – đặc biệt là
Liên Xô – lại tăng viện gấp bốn lần cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH).
Chênh lệch này khiến VNCH nhanh chóng rơi vào tình trạng kiệt quệ cả về vũ khí,
tiếp liệu, lẫn phương tiện truyền thông và y tế (kể cả băng cứu thương).
Trong tay Tổng thống
Thiệu chỉ còn một vũ khí duy nhất: đó là những lá thư với chữ ký của Tổng thống
Nixon cam kết rằng Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ và "bảo vệ hòa bình bằng tất cả
sức mạnh của Hoa Kỳ nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp định."
Tuy nhiên, khi Tổng
thống Nixon phải từ chức do vụ Watergate, những lá thư này không bao giờ được
chuyển đến người kế nhiệm là Tổng thống Gerald Ford. Henry Kissinger – người giữ
vai trò trung gian – đã cố tình che giấu ông Ford và che giấu luôn cả Quốc hội
Mỹ về diễn tiến của "hòa bình" và giấu nhẹm hồ sơ Nixon – Thiệu.
Bằng cách đó, ông đã tước nốt lá chắn cuối cùng còn lại trong tay VNCH.
Ngày 30/4, khi Sài
Gòn thất thủ thì ở bên kia bán cầu thì ngay tại thủ đô Washington, một "mặt
trận sự thật" khác được mở ra.
Chúng tôi, những người
từng chứng kiến toàn bộ quá trình ngoại giao từ bên trong, đã quyết định công bố
những bằng chứng về chiến lược "Decent Interval" và các cam kết mật
giữa Nixon và Thiệu – những tài liệu bị Kissinger cố tình che giấu đi. Tất cả
được đưa ra công luận đúng vào lúc thế giới còn đang sửng sốt trước cảnh tháo
chạy ở Sài Gòn.
Sự thật ấy như một
gáo nước lạnh dội vào Quốc hội Hoa Kỳ.
Những vị dân cử trước
đây từng biểu quyết cắt viện trợ, giờ đây mới nhận ra rằng họ đã bị đánh lừa.
Không có hòa bình, cũng chẳng có danh dự. Chỉ có sự phản bội, sự thao túng và
những quyết định được đưa ra trong bóng tối.
Ban đầu, Quốc hội Mỹ
gần như dửng dưng trước làn sóng người tị nạn Việt Nam tràn sang các trại tạm
cư ở Guam, Wake, Camp Pendleton… Nhưng sau khi các tài liệu được công bố, và
sau nhiều cuộc điều trần gay gắt, thái độ của họ đã thay đổi hoàn toàn.
Từ chỗ phản đối di tản,
Quốc hội bắt đầu thông cảm và chuyển sang tiếp nhận đoàn người tị nạn Việt Nam.
Với sự thông cảm ấy, lớp người tị nạn đầu tiên đã hoạt động để từng bước dẫn đến
các chương trình Chương trình Ra đi Có trật tự (Orderly Departure Program,
ODP), Chương trình Nhân đạo (Humanitarian Operation, HO), các khoản trợ giúp định
cư, y tế, giáo dục…
Quốc hội cũng bắt đầu
điều tra lại hồ sơ Nixon–Thiệu. Nhưng chính quyền Ford, dù bị áp lực, vẫn từ chối
cung cấp tài liệu – có thể vì họ cũng bị "đặt ở ngoài cuộc".
Một đội quân bị bỏ
đói trong chiến hào
https://www.youtube.com/watch?v=FVboET9P_gQ
Nếu có ai đó hỏi vì
sao VNCH sụp đổ nhanh đến vậy trong tháng 3 và 4 năm 1975, câu trả lời không nằm
ở tinh thần chiến đấu, mà nằm ở hai chữ: kiệt quệ. Sau Hiệp định Paris 1973, và
nhất là từ năm 1974 trở đi, khả năng chiến đấu và hậu cần của VNCH đã rơi tự
do.
Và đến giờ phút khi
bi kịch "Decent Interval" hạ màn, đạn dược chỉ còn đủ cho 12 tới 20
ngày – như Đại tướng Viên báo cáo ngày 1/4/1975.
Thiếu tướng John E.
Murray – Tùy viên quân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn (1973–1974), là chứng nhân tại chỗ
– trong một báo cáo mật đã so sánh tương quan lực lượng hai bên trước khi sụp đổ:
"Trong thời cao
điểm của lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam, chúng ta từng có 433 tiểu đoàn tác chiến
Mỹ và Đồng minh chiến đấu ở Việt Nam. Địch có 180 tiểu đoàn. Đến năm 1974, khi
chúng ta rút lui, VNCH có 189 tiểu đoàn, địch tăng lên 330 tiểu đoàn.
"Lấy đi B-52, F-4, lấy đi hải pháo, lấy đi tất cả…Và ta bắt đầu yểm trợ miền Nam với 2% tổng số tiền đã dùng cho quân đội Mỹ, để đương đầu với một số địch quân nhiều hơn."
Rồi ông kết luận bằng
một trích dẫn đáng suy ngẫm:
"Napoleon đã từng
nói: Thượng Đế đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất."
"Đúng như vậy.
Thượng Đế đã đứng về phe cộng sản vào năm 1974; quân họ đông hơn, mạnh hơn. Và
đó là lý do chúng ta đã thua chiến tranh Việt Nam."
Trên thực tế - và
chúng tôi là nhân chứng - cuối cùng thì cũng chẳng có số tiền tương đương 2% ,
mà hầu như là con số không.
Từ Nguyễn Văn Thiệu
1975 tới Volodymyr Zelensky 2025
Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày 30/4/1975 – ngày định mệnh kết thúc một quốc gia, nhưng âm hưởng của sự kiện ấy vẫn vang vọng trong thời sự quốc tế, nhất là khi người ta chứng kiến một quốc gia khác – Ukraine – đang vật lộn để tồn tại.
Tuy cuộc chiến Việt
Nam và chiến tranh Ukraine là khác hẳn nhau về bản chất lẫn hoàn cảnh lịch sử,
nhưng về vấn đề viện trợ của Hoa Kỳ thì có điểm tương đồng.
Một trong những câu
nói gây chấn động trong cuộc chiến Ukraine đến từ Tổng thống Volodymyr
Zelensky. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Amna Nawaz trên PBS ngày
14/4/2024, ông thẳng thắn nhấn mạnh:
"Tôi có thể nói rõ ràng với bà: nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể chiến thắng." Có nghĩa là sẽ chiến bại.
Mới đây, ngày
14/2/2025, ông nói trên đài NBC:
"Sẽ rất, rất, rất
khó khăn để Ukraine có thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ, cả
hiện tại khi đất nước đang cố gắng chiến đấu và trong tương lai sau khi chiến
tranh kết thúc."
Những lời này vang
lên bên tai tôi như một tiếng vọng từ quá khứ.
Tháng 1/1973, ngay
sau khi Kissinger trở về từ Paris với bản thỏa hiệp đình chiến trong tay, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đã dành một cuộc phỏng vấn cho ký giả nổi tiếng người Ý,
bà Oriana Fallaci (còn ghi lại trong cuốn sách Interview with History).
Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ không còn viện trợ nữa, ông Thiệu trả lời không hề do dự:
"Nếu Mỹ bỏ rơi
chúng tôi, đó sẽ là sự kết thúc. Kết thúc hoàn toàn, tuyệt đối."
Liệu ông có thể tìm
được những nguồn lực nào khác?
"Làm sao chúng
tôi có thể tìm được một quyền lực nào khác giống như Mỹ đã giúp chúng tôi? Có
thể chúng tôi cũng tìm được một quốc gia khác sẵn sàng giúp, nhưng không quốc
gia nào có nhiều phương tiện như Mỹ."
Những lời nói ấy,
hơn 50 năm sau, giờ đây lại được lặp lại gần như nguyên văn – không phải bởi một
nhà lãnh đạo Á Đông mà bởi một tổng thống châu Âu trong thế kỷ 21.
Chỉ cần thay cái tên
"Nguyễn Văn Thiệu" bằng "Volodymyr Zelensky", thì toàn bộ
tâm trạng, nỗi lo sợ, và sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ được lặp lại một cách kỳ lạ.
Nếu như "kế hoạch
hòa bình" do Mỹ đưa ra tiếp tục bị bế tắc và Mỹ "bỏ đi" – vì còn
những ưu tiên khác như Gaza, Iran, Trung cộng (Biển Đông, Đài Loan), cuộc thương
chiến,v.v. thì tương lai của Ukraine sẽ như thế nào?
Lặp lại lời ông
Zelensky rằng "sẽ rất, rất, rất khó khăn" để Ukraine có thể tồn tại nếu
không có sự hỗ trợ quân sự từ Mỹ - "cả bây giờ, khi chúng tôi chiến đấu, lẫn
sau này khi chiến tranh kết thúc" - câu hỏi đặt ra là liệu một kết cục
tương tự có đến với Ukraine?
TS_Nguyễn Tiến Hưng
***
Những thay đổi về diện mạo của các địa danh trong Chiến tranh Việt Nam
Trong Chiến tranh Việt Nam, Đà Nẵng là căn cứ chính của cả quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Những người lính chiến đấu đầu tiên của Hoa Kỳ đã đổ bộ vào đây vào năm 1965 và nơi đây đã trở thành trung tâm hoạt động và tiếp tế. Ngày nay, những bãi biển tuyệt đẹp của thành phố, bao gồm cả bãi biển được người Mỹ và người Úc gọi là "China Beach" để nghỉ ngơi và thư giãn, tự hào có những khách sạn nghỉ dưỡng được du khách ưa chuộng.
https://baomai.blogspot.com/
***
Cựu điệp viên CIA trong vụ cấm quan chức Mỹ dự lễ 30/4
Tác giả Nguyễn Đạt kể lại khoảnh khắc Sài Gòn sụp đổ ngày 30/4
Nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Đạt chia sẻ rằng những tấm hình ông chụp lại là vào "thời khắc giao thừa giữa hai chế độ", như cách cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói "có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn".
Gần 50 năm trước, chàng thanh niên 19 tuổi Nguyễn Đạt (họ tên đầy đủ là Nguyễn Đình Đạt) sống trên đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nay là đường Lê Văn Sỹ, quận 3, TP HCM.
https://baomai.blogspot.com/
***
TT Trump yêu cầu quan chức không dự kỷ niệm 30/4 ở Việt Nam
Tổng thống Donald Trump dường như cảm thấy "không vui" trước hoạt động kỷ niệm 30/4 tưng bừng của Việt Nam
Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã yêu cầu các nhà ngoại giao cấp cao của Mỹ tại Việt Nam không tham gia các sự kiện kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh - một động thái mà Việt Nam có lẽ cần xem xét nghiêm túc.
https://baomai.blogspot.com/
***
Bản tin cuối cùng dang dở từ Sài Gòn ngày 30 - 4
"Chúng tôi biết rằng Đại sứ Graham Martin đã lên bãi đáp trực thăng, điều đó có nghĩa là chiến tranh sắp kết thúc," nhà báo Ấn Độ Nayan Chanda kể.
Là phóng viên thường trú của Far Eastern Economic Review (Tạp chí Viễn đông kinh tế), nhà báo Nayan Chanda được cử đến Sài Gòn từ năm 1974 và ông đã tận mắt chứng kiến khoảnh khắc Sài Gòn sụp đổ.
https://baomai.blogspot.com/
***
Hà Nội gỡ áp phích có hình chim bồ câu đứng trên mũ lính Mỹ
Một số bài đăng trên mạng xã hội với hình ảnh một tấm áp phích có đóng dấu bản quyền của báo Tiền Phong được lan truyền từ hôm thứ Tư 23/4, với nhiều bình luận phê bình và yêu cầu gỡ.
Sau chiều 24/4 không tìm được hình ảnh này trên trang web của báo Tiền Phong.
https://baomai.blogspot.com/
***
Trung cộng tham gia diễu binh kỷ niệm 50 năm thống nhất Việt Nam
Trung cộng cắm cờ chủ quyền tại Trường Sa giữa lúc Việt Nam ăn mừng chiến thắng
https://www.youtube.com/
Hải cảnh Trung cộng vừa cắm cờ chủ quyền tại một bãi cạn ở Trường Sa. Động thái này diễn ra trùng với khoảng thời gian ông Tập Cận Bình đi thăm Hà Nội và Việt Nam đang tập trung cho các hoạt động kỷ niệm 30/4.
Tân Hoa Xã và một loạt trang mạng tiếng Trung cộng hôm nay 25/4 đã đăng tải hình ảnh Hải cảnh Trung cộng đổ bộ lên một bãi cạn tại cụm Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa, khu vực mà Việt Nam gọi là huyện đảo Trường Sa.
https://baomai.blogspot.com/
***
Quán “Đảng Chồn Lùi” ở Việt Nam
Cao Như Đảng biệt tài làm thịt chó, thịt nhanh, nấu khéo, cả làng cả xóm biết tiếng. Ngay cả chó dại, chó chết ốm, chó bị trẹt xe…, gã mà đã nhúng tay pha thịt, ướp hấp, lúc dọn lên mâm vẫn ngon nhức.
https://baomai.blogspot.com/
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.