Pages
▼
Thursday, December 31, 2015
Nhìn lại Việt Nam 2015
Tứ trụ triều đình ai đi
ai ở sau Đại hội Đảng 12? Từ trái: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Nước Trương Tấn
Sang.
Năm 2015 đã khép lại,
nhưng tình hình chính trị Việt Nam vẫn đang nóng, cái nóng kéo dài từ đầu năm với
cái chết không rõ nguyên do của Nguyễn Bá Thanh, Trưởng ban Nội chính Trung
ương. Cơn sốt chính trị sẽ còn kéo dài cho đến hết mùa đông vì những đấu đá
trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam trước Đại hội Đảng XII, dự trù sẽ diễn ra
vào tuần cuối tháng Giêng 2016.
Nguyễn Bá Thanh qua đời
đầu năm 2015, sau khi được chữa trị, vì cho là bị nhiễm phóng xạ, ở Singapore rồi
đưa sang Mỹ nhưng cũng không cứu được. Sau Nguyễn Bá Thanh đột tử là sự vắng mặt
đầy nghi vấn của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cũng đã gây xôn xao dư
luận một thời gian với nghi ngờ là đã có những thanh trừng nội bộ cho đến khi
tướng Thanh tái xuất hiện.
Suốt năm qua đã có nhiều
dấu chỉ cho thấy tranh giành quyền lực đã diễn ra. Từ đầu năm, Hội nghị 10 Ban
Chấp hành Trung ương (BCHTƯ) Đảng có cuộc bỏ phiếu mức tín nhiệm các ủy viên Bộ
Chính trị, theo sau cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội dành cho gần 50 lãnh đạo
chính phủ và các bộ vào cuối năm 2014. Tuy nhiên, Hội nghị 13 BCHTƯ kết thúc hai
tuần trước đây vẫn chưa sắp xếp được nhân sự lãnh đạo cho Đại hội Đảng XII.
Với tình hình Biển
Đông cẳng thẳng trong nhiều năm qua, nhất là sau khi Trung Cộng đưa giàn khoan
HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào mùa hè 2014, và với chính sách
xoay trục của Mỹ về Đông Á, có những nhận định cho rằng giới lãnh đạo Việt Nam
ngày nay chia làm hai phe: thân Trung Cộng và thân Hoa Kỳ.
Thân Trung Cộng thì
quá rõ qua các chính sách của Hà Nội đưa ra từ sau Hội nghị Thành Đô năm 1990,
với vô số dự án kinh tế, phát triển hạ tầng cơ sở tại Việt Nam do người Hoa làm
chủ.
Chủ trương thân Hoa Kỳ
nói riêng và thân phương Tây nói chung còn như mờ ảo trong chính trường Việt
Nam.
Nếu cho rằng Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, với cô con gái lấy chồng Việt kiều Mỹ là con của một cựu thứ
trưởng Việt Nam Cộng hòa, là người có chủ trương thân Mỹ thì đó là một lầm lẫn.
Nếu ông Dũng thực sự thân Mỹ, trong hai nhiệm kỳ vừa qua ông đã có thể làm được
nhiều điều để chứng tỏ, như đưa ra những cải cách luật pháp cho phù hợp với xu
thế thời đại, thả hết những người bất đồng chính kiến bị giam tù. Nhưng ông
Dũng đã không làm như thế.
Ông Dũng từng khuyên
lãnh đạo Myanmar cải cách chính trị và trong vài năm qua lãnh đạo của đất nước
này đã làm được để đưa Myanmar lên đường dân chủ hóa. Còn ông Dũng đã không làm
được gì cho Việt Nam, trái lại trong mười năm ông nắm chức thủ tướng, Việt Nam
tiếp tục tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực vì kinh tế quốc
doanh, tham nhũng tiếp tục lan tràn và chính sách cai trị độc tài với nhiều người
bất đồng chính kiến bị bắt giam và kết án tù. Bộ Luật Hình sự Việt Nam chưa có
sửa đổi gì liên quan đến các Điều 79, 88 và 258 – tức là những điều thường được
dùng để bắt giữ và truy tố những người có quan điểm bất đồng với Nhà nước.
Những luật mới về báo chí, luật về biểu tình vẫn chưa được ban hành.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng rõ ràng là người cực kỳ bảo thủ. Ông kiên quyết đưa đất nước tiến lên xã
hội chủ nghĩa dù “chẳng biết nó sẽ như thế nào”. Ông đã được đón tiếp trọng thị
tại Hoa Kỳ trong năm nay, ông cũng đã đi thăm nhiều nước tư bản nhưng không học
hỏi được gì để giúp kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn hiện tại. Với chủ
trương của Đảng Cộng sản do ông lãnh đạo, Việt Nam trong những năm qua đã - và
rất có thể trong những năm tới sẽ tiếp tục - sản xuất ra nhiều tiến sĩ có khả
năng trí tuệ chỉ để củng cố, bảo vệ và phát triển đảng hơn là phát triển đất nước.
Chủ tịch Nước Trương Tấn
Sang được xem là có khuynh hướng cải cách chính trị và thân Hoa Kỳ hơn cả. Những
người được cho là có đồng quan điểm với ông Sang là giáo sư Tương Lai Nguyễn
Phước Tường và nhà báo Nguyễn Công Khế, cựu Tổng Biên tập báo Thanh Niên,
đã viết bài quan điểm trên báo The New York Times đòi hỏi một nền báo
chí độc lập và sinh hoạt chính trị đa nguyên cho Việt Nam. Giáo sư Tương Lai từng
làm cố vấn cho cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và trong những năm gần đây đã nhiều lần
lên tiếng kêu gọi tự do dân chủ cho Việt Nam.
Chính vì thế trong những
ngày cuối năm 2015 hàng loạt tài liệu đã được tung ra tố cáo nhà báo Nguyễn
Công Khế chiếm đoạt tài sản, kinh doanh bất chính, có con đã mua nhà và sống ở
California. Ông Khế hiện không nắm chức vụ quan trọng nào trong chính quyền mà
lại nằm trong tầm nhắm của đối thủ chính trị.
Như đã từng xảy ra
trong những Đại hội Đảng trước, “Tứ trụ triều đình” không thể nào tránh khỏi bị
tấn công, bêu xấu. Đọc những tài liệu về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch
Nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nhân vật có thể được chọn làm thủ tướng
tại Đại hội Đảng XII sắp tới, không thể không quan ngại về khả năng lãnh đạo độc
lập của Hà Nội.
Đầu tháng 11 vừa qua
Chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình đã sang thăm Hà Nội, đọc diễn văn trước Quốc hội
Việt Nam. Tuần trước, chuyến đi Trung Cộng gấp rút của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng là dấu chỉ Bắc Kinh có ảnh hưởng đến việc chọn lựa lãnh đạo sắp tới tại
Đại hội XII, vì ông Hùng đã được mời sang thăm Trung Cộng nhiều lần trước đây,
nhưng ông chưa đi mà lại chọn sang thăm vào đúng thời điểm này.
Trong khi đó, trên mạng
thông tin điện tử anhbasam.wordpress.com đã xuất hiện nhiều tố cáo lẫn
nhau như một bức thư được cho là của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị để giải trình những tố cáo sai phạm của ông và
người thân, thư được cho là của Trương Văn Quy đòi kiểm tra tài sản của gia
đình Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, và những tài liệu tố cáo Nguyễn Công Khế.
Thật khó kiểm chứng những
thông tin được liên tục đưa lên mạng nhằm nói xấu đối thủ.
Nhưng khi Bộ trưởng
Công an Trần Đại Quang, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh và Thứ
trưởng Bộ Truyền thông và Thông tin Trương Minh Tuấn phải lên tiếng về những bí
mật trong số tài liệu được phổ biến và yêu cầu mở điều tra về những nguồn tin mật
được đưa ra thì giới quan sát tình hình chính trị Việt Nam đồng ý rằng đã có những
sự thật được phơi bày.
Trước thềm Đại hội Đảng
XII, cuộc bày binh bố trận đến nay cho thấy Trung Cộng vẫn tìm cách gây ảnh hưởng
vào chính trường Việt Nam.
Tình hình ngày nay
căng thẳng giống như trước Đại hội Đảng VII năm 1991. Sau 5 năm thực hiện chính
sách đổi mới kinh tế được Đại hội VI đề ra năm 1986, phe cải cách muốn tiến
nhanh hơn trong việc đưa Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của Bắc Kinh. Nhưng trước
những biến động ở Đông Âu và Liên Xô, phe giáo điều kiên định với quan điểm
Mác-Lê được Trung Cộng ủng hộ đã thắng thế và đưa Đỗ Mười lên làm Tổng Bí thư.
Mô hình phát triển
theo đường lối như Trung Cộng đã được Hà Nội chọn từ đó, tức là con đường phát
triển kinh tế nhưng giữ độc quyền chính trị. Mọi tiếng nói đối lập, kêu gọi dân
chủ đa nguyên đều bị dập tắt và trừng trị bằng những bản án tù.
Sau Đỗ Mười là Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh và bây giờ là Nguyễn Phú Trọng đều có quan điểm cực kỳ bảo
thủ giáo điều.
Nhiều người hy vọng sẽ
có thay đổi tại Đại hội XII để đưa Việt Nam vào con đường dân chủ. Nhưng hy vọng
này còn rất mong manh vì quan hệ Việt-Trung đã được nối lại 25 năm, trong khi
quan hệ Việt-Mỹ mới được 20 năm và còn quá nhiều nghi ngờ lẫn nhau vì quá khứ
thù nghịch kéo dài và khác biệt về hệ tư tưởng chính trị.
Năm 2015 Hoa Kỳ đã đón
tiếp nhiều lãnh đạo Việt Nam sang thăm, từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đến Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Hai nước đã cam
kết tôn trọng chế độ chính trị của nhau.
Nhưng Hà Nội chưa hết
nghi ngờ âm mưu “diễn biến hòa bình” của Mỹ, đơn giản là để phát triển kinh tế
hơn nữa, theo lộ đồ trong các hiệp ước thương mại mà Việt Nam đã ký kết, thì cần
cải cách chính trị. Mà theo mô hình của Trung Cộng, Hà Nội lại không muốn cải
cách chính trị.
Ba mươi năm sau đổi mới,
năm 2016 Việt Nam lại đang ở ngã ba đường. Chọn lựa tại Đại hội Đảng XII sắp tới
sẽ định hướng tương lai của đất nước.
Bùi Văn Phú
Tản mạn cuối năm 2015
Trong buổi tối giá lạnh
của mùa Đông El Nino, chợt cảm thấy tâm hồn như chùng xuống, mặc dầu mới tuần
trước đây, cùng với vài tỷ người mừng kính Thiên Chúa giáng trần để cứu nhân loại.
Điều làm cho tâm bất an là tuy Tin Mừng mà Thiên Chúa mang xuống trần gian đem
lại cho người ta nhiều hy vọng, nhưng thực tế, nhìn chung quanh vẫn thấy con
người vẫn chìm trong khổ đau, sự Ác vẫn hiện diện một cách trắng trợn và người
ngay lành vẫn bị chà đạp, bị giết một cách thảm thương. Thiên hạ vẫn giết lẫn
nhau vì tình, vì tiền hay vì tư thù; kẻ ác vẫn cắt cổ người lương thiện, kẻ có
vũ khí và quyền lực trong tay vẫn chà đạp lên nhu cầu Sống Bình An của con người,
các nhà lãnh đạo độc tài vẫn bao vây tư tưởng, vẫn cấm đoán người dân phát biểu
theo ý mình. Vậy, sự kiện Thiên Chúa hạ sinh có phải là một thất bại không?
Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa có phải là một ảo tưởng của Người Cha
nhân từ, muốn cứu con cái mình, nhưng lực bất tòng tâm không?
Câu hỏi này, hình như khó nhận được câu trả lời thích ứng, cho nên, số người tin theo đạo Chúa, mỗi ngày mỗi vơi. Nhiều nhà thờ đóng cửa. Nhiều địa hạt Công Giáo khai phá sản. Người đi tu thì ít hơn người bỏ tu hoặc vẫn còn tu nhưng đi chệch hướng với đường đi của Thiên Chúa. Nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội sống lơ là, mũ ni che tai, lo xây nhà thờ to lớn, mặc cho tiếng thở vất vả trong đời sống tối tăm của con chiên vẫn đều đặn bên tai mình. Nếu cứ đà diễn tiến này, thì chẳng bao lâu nữa, đạo Chúa hay ngay cả các Tôn Giáo hiền hòa khác sẽ trở thành những kỷ niệm truyền thống của nhân loại vào thập kỷ 3000. Người ta sẽ không còn tin theo một tôn giáo nào nữa, mà chỉ tin vào sức mạnh của chính mình. Lúc đó, thế giới sẽ thành một nơi hỗn mang, man rợ như những thế kỷ đầu tiên của con người Neanderthals, đã biến mất khoảng 40,000 năm trước đây.
Nhưng thực tế có phải bi quan như thế không?
Câu hỏi này, hình như khó nhận được câu trả lời thích ứng, cho nên, số người tin theo đạo Chúa, mỗi ngày mỗi vơi. Nhiều nhà thờ đóng cửa. Nhiều địa hạt Công Giáo khai phá sản. Người đi tu thì ít hơn người bỏ tu hoặc vẫn còn tu nhưng đi chệch hướng với đường đi của Thiên Chúa. Nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội sống lơ là, mũ ni che tai, lo xây nhà thờ to lớn, mặc cho tiếng thở vất vả trong đời sống tối tăm của con chiên vẫn đều đặn bên tai mình. Nếu cứ đà diễn tiến này, thì chẳng bao lâu nữa, đạo Chúa hay ngay cả các Tôn Giáo hiền hòa khác sẽ trở thành những kỷ niệm truyền thống của nhân loại vào thập kỷ 3000. Người ta sẽ không còn tin theo một tôn giáo nào nữa, mà chỉ tin vào sức mạnh của chính mình. Lúc đó, thế giới sẽ thành một nơi hỗn mang, man rợ như những thế kỷ đầu tiên của con người Neanderthals, đã biến mất khoảng 40,000 năm trước đây.
Nhưng thực tế có phải bi quan như thế không?
Có hai loại khổ đau: khổ đau chủ quan (hay khổ đau nội tại) và khổ đau khách quan (hay khổ đau ngoại xâm). Khổ đau chủ quan đến tự nội tâm của chính con người. Có những người luôn sống bằng ảo vọng, bằng sự mê say, ham thích những điều vượt quá tầm tay của mình nên lúc nào cũng thấy khổ. Học ít, đi làm lương kém, nhìn thấy bạn bè hay những người khác giầu sang thì cảm thấy khổ. Yêu người không yêu mình thì đau buốt tim gan. Có con cái hư hỏng vì lỗi của mình không giáo dục đến nơi đến chốn thì chán nản. Ăn uống không điều độ sinh bệnh tật thấy đau đớn cả ngày. Đôi khi ăn chay trường, sống hiền hòa mà bỗng dưng mắc bệnh, thì bất mãn với ông Trời. Bố mẹ bất tài, nghèo khổ, làm con cái khổ theo. Cũng có những trường hợp dồi dào khả năng, chịu thương chịu khó, nhưng số kiếp vất vả, làm hoài không khá, thì kêu “Trời ơi! Sao nhẫn tâm đến thế?” Dân gian mình thường hay nói: Người ấy nghèo khổ quá! “Nghèo” thì luôn đi đôi với “Khổ”! Đó là những cái Khổ đau nội tại, phát sinh từ chính tư tưởng của mình rồi chi phối hành động của con người, làm cho người ta thấy Khổ.
Đời sống con người ở những nơi này thật
vô nghĩa. Như ở Việt Nam, nhà cầm quyền ỷ vào bạo lực của mình mà áp đặt một chế
độ phi nhân bản, một chế độ vô cảm với hạnh phúc của con người, một chế độ của
Những Con Người Lãnh Đạo Robot, không có tư duy, chỉ cử động theo những chương
trình cài đặt (program) đòi ăn, ngủ, vệ sinh, tiêu tiền, làm tình, nói láo, kiếm
tiền thật nhiều cho dù phải bán cả Tổ quốc của mình, bất chấp danh dự, nhân phẩm,
và giá trị của một con người. Nói theo kiểu bình dân, những lãnh đạo Cộng Sản
là những động vật chỉ biết đớp, hít, hưởng thụ và tiêu hóa, ngoài ra không có một
chút giá trị gì của một con người. Nếu so sánh những kẻ lãnh đạo đó với những động
vật có tình cảm khác, thì lãnh đạo Cộng Sản còn thua những con chó trung thành,
liều chết bảo vệ chủ nhà mà người ta từng tạc tượng và quý mến.
Đến đây, thì một vấn đề khác nẩy sinh: khi sức lực Trần Thế của con người có giới hạn, thì phải nhờ đến một nguồn lực Siêu Nhiên: Thiên Chúa (hay Thượng Đế, ông Trời), là những Lực đã tác tạo ra con người hôm nay. Con người, trong cơn đau khổ, không thể oán trách Thiên Chúa là đã bỏ lơ loài người, vì thực tế, Thiên Chúa đã cho con người có Tự do suy nghĩ và hành động, nhưng Thiên Chúa không tạo ra chiến tranh, không khuyến khích bạo lực, và chẳng bao giờ hướng dẫn con người vào chỗ Đau Khổ! Chúa Giê Su nói: “Ta đến để đem sự sống vĩnh cửu cho trần thế!” nhưng chính con người đã giết Ngài, đã đánh đập Ngài, và treo Ngài lên thập giá. Từ đó, sự Ác cứ càng ngày càng phát triển một cách khủng khiếp. Trước khi Ngài xuống thế, tội ác đã dẫy đầy nhưng không tràn lan với một cường độ kinh hãi như sau khi Ngài lên trời. Những cuộc chiến sau này nổ ra với số người chết cả năm, sáu chục triệu, đẩy ra các bệnh dịch cũng chết cả chục triệu người và trong tương lai, một trận chiến bằng nguyên tử lực có thể tiêu diệt cả trái đất!
Chu Tất Tiến
Wednesday, December 30, 2015
Nước Nga ‘gồng mình’ để tồn tại
Cảnh chợ trời nhếch
nhác ngoại ô Mosow.
Bắt gặp cái nhìn của
du khách, ông liền nở nụ cười, giơ tay vẫy vẫy mời chào: “Chụp hình kỷ niệm đi.
Chỉ 100 rub thôi, hay $2 đô la Mỹ cũng được!”
Tôi vừa lắc đầu vừa phá lên cười vì nhận ra người “quen quen” ấy: Lenin. Hiển nhiên, chính xác hơn, là người đóng vai Lenin.
Tôi vừa lắc đầu vừa phá lên cười vì nhận ra người “quen quen” ấy: Lenin. Hiển nhiên, chính xác hơn, là người đóng vai Lenin.
Trong thời gian lang
thang xung quanh điện Kremlin, tôi còn gặp mấy “Lenin” nữa, cũng đang mời chào
du khách chụp hình. Tự nhiên tôi liên tưởng đến câu đầu tiên trong “Tuyên Ngôn
Ðảng Cộng Sản: “Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu: Bóng ma Chủ Nghĩa Cộng Sản.”
Chẳng những không chỉ
Lenin thôi mà tại Quảng Trường Ðỏ - biểu tượng của nước Nga - du khách còn gặp
được vô số nhân vật nổi tiếng, những vị vua chúa của Nga thời xưa, như Groznyi
Ðại Ðế, Nữ Hoàng Ekaterina Ðệ Nhị, và cả lãnh tụ Soviet sắt máu sau này như
Stalin...
Người Nga ngày nay
không chỉ bị ảnh hưởng của học thuyết Cộng Sản lỗi thời (dầu đã cố thoát khỏi
nó), họ mang cả tâm lý của một quốc gia từng là đại cường, muốn phục hồi với
mong mỏi khôi phục lại đế chế Nga hùng mạnh, cho dầu dưới một tên gọi khác. Các
phương tiện truyền thông thế giới phần lớn đang mô tả nước Nga như một quốc gia
hung hãn đang bị cô lập, cấm vận và kiệt quệ... Vậy thật sự nước Nga hiện tại
ra sao?
Tôi trở lại thăm Nga
sau 7 năm, ngạc nhiên bởi những đổi thay của nó. Nếu chỉ nhìn bề ngoài thôi thì
có vẻ hầu như tất cả đã đẹp hơn, lịch sự hơn, tốt hơn rất nhiều. Những đại lộ
giữa Moscow với cả gần chục lanes mỗi chiều, những cao ốc kính lấp lánh không
khác gì tại các downtown của các đô thị của Mỹ, những dãy cửa hàng sang trọng tập
trung tất cả các nhãn hiệu thời trang danh tiếng thế giới, những siêu thị thực
phẩm đầy ắp thức ăn...
Không còn cảnh dày đặc cảnh sát vũ trang mang áo giáp
lăm lăm súng tiểu liên trên mỗi góc phố như trước kia. Cảnh sát giao thông cũng
vắng bóng, các camera giám sát giao thông dày đặc, phiếu phạt được gửi về theo
bưu điện kèm theo hình ảnh chứng minh.
Không còn thấy cảnh các nhóm đầu trọc
hung hãn quấy rầy du khách. Giới trẻ dùng tiếng Anh phổ thông hơn trong giao tiếp...
Nếu đến nước Nga vào
khoảng thời gian Tháng Chín, du khách sẽ cảm thấy một nước Nga thật thơ mộng.
Cuối Thu nhưng trời chưa quá lạnh vì đang “mùa Hè rớt,” nắng vẫn lấp lánh trên
những nóc giáo đường dát vàng rực rỡ. Cái lạnh chỉ đủ để khoác lên người chiếc
jacket mỏng làm dáng. Khắp nơi, mọi chốn hầu như chỉ một màu vàng, của cây cỏ,
của thiên nhiên.
Lang thang trên các nẻo
đường, góc phố Moscow hay Saint Petersburg, du khách ngỡ ngàng bởi kiến trúc cổ
kính, những giáo đường lộng lẫy, những con sông uốn mình soi bóng những lâu đài
trầm mặc...
Lãnh tụ Lenin lăn lóc
dưới đất cùng nồi niêu, xoong chảo.
Không những bị mê hoặc
bởi sắc đẹp của thiên nhiên và kiến trúc, du khách sẽ còn “mê” nước Nga hơn vì
giá cả hiện nay đều... quá rẻ, khi quy tiền Nga ra tiền Ðô La. ($1 đổi được khoảng
66 rub).
Vé tàu điện ngầm tại
S. Petersburg là 30 rub (tức chỉ gần 50 xu Mỹ) cho 1 lần đi không giới hạn khoảng
cách. Vé một ngày ở Moscow là 200 rub (khoảng $3), không giới hạn số lần sử dụng.
Thịt bò loại ngon khoảng
$5/kg. Có cả crawfish (còn tươi, sống, loại to khoảng 10 con/kg giá $9. Loại nhỏ
hơn khoảng $6/kg). Giá bia rượu khoảng bằng một nửa so với Mỹ, ngoại trừ một số
đồ nhập khẩu. Giá dịch vụ ăn uống cũng vậy. Với khoảng $20-$30 trong túi, du
khách có thể tự cho phép mình ghé hầu như mọi quán sang trọng ở trung tâm, ngồi
nhâm nhi bia rượu với đồ nhắm mà không phải lo nghĩ nhìn vào giá ở... menu. Nếu
chỉ quanh quẩn ở Moscow, St. Petersburg hay vài thành phố lớn nữa thì, đối với
du khách, nước Nga quả là “tuyệt vời.”
Ðúng, nước Nga thật
tuyệt vời, nhưng chỉ đối với du khách!
Tôi theo một người bạn
đến thành phố Lipesk, cách Moscow khoảng 500 km về phía Nam.
Ðây là thành phố
công nghiệp có tiếng ở Nga với những building kiến trúc thô kệch mà ngay cả người
Nga cũng phải thốt lên là “quái thai.”
Ngay trong thành phố vẫn
có những con đường lầm bụi, chi chít ổ gà như trong thời chiến tranh khiến xe
không thể tránh mà chỉ có thể cố điều khiển làm sao cho bánh xe rơi xuống hố một
cách... nhẹ nhàng nhất. Mới sáng Thứ Hai đầu tuần mà trên bến xe bus ngay trung
tâm thành phố đã có người say rượu nằm sóng soài ngay trên lề đường. Khác hẳn với
vẻ mặt rạng rỡ, viên mãn của người Moscow hay St. Petersburg, con người Lipetsk
trông khắc khổ, ủ dột, đậm nỗi suy tư... Tôi thắc mắc với người bạn (là người
Nga) sao không thấy cô gái đẹp nào trên đường phố. Anh trả lời, vừa chua chát,
vừa phóng đại: “Gái đẹp lên Moscow làm điếm hết rồi!”
Chúng tôi ghé vào một
công sở, nơi chuyên cung cấp giấy phép cho các doanh nghiệp toàn Lipetsk và
vùng lân cận. Vào toilet thì thấy chiếc “xí xổm” (tức loại ngồi chồm hổm, vốn rất
thịnh hành ở Việt Nam thời xa xưa), không có giấy toilet, không có xà bông rửa
tay, nhưng lại có... chén bột giặt! Tôi mang điều này ra kể cho người bạn Nga,
anh ta lại một lần nữa nhún vai: “May mà còn có chỗ để đái.”
Cờ nhung, nội dung
“dưới ngọn cờ của Chủ Nghĩa Marx-Lenin, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, tiến
lên tới chiến thắng của Chủ Nghĩa Cộng Sản,” cũng ra chợ trời luôn.
Mà cần gì phải đi xa đến
500 km, chỉ cần ra khỏi Moscow là đã thấy một bức tranh hoàn toàn khác với sự lộng
lẫy, hào nhoáng của thủ đô nước Nga.
Một hôm, tôi đi chợ trời
nằm tại thành phố nhỏ Khimki, cách Moscow khoảng 80 km. Ở đây đường phố đã hẹp
hẳn, những ngôi nhà gỗ xiêu vẹo, hoang tàn... Khác với chợ trời Mỹ quy củ trên
những sân vận động hay bãi đậu xe của các trường học, chợ trời ở Nga được họp
trên một mảnh đất hoang đầy bụi, khấp khểnh sỏi đá... Phong cách nhếch nhác,
hàng hóa nhếch nhác, người bán cũng nhếch nhác... Chợ trời Mỹ hầu như người bán
là chuyên nghiệp, nguồn hàng thường là từ những người không còn nhu cầu sử dụng
nữa, trong đó có cả đồ mới toanh. Còn ở Nga phần lớn người bán nghiệp dư,
mang những thứ mình đang dùng ra bán, vì túng tiền.
Tôi thật sự đau lòng
khi nhìn thấy một bà cụ người Nga đứng rao bán những chiếc túi ni lon đã cũ, đã
sử dụng. Nhìn trang phục và nét mặt khắc khổ của bà, tôi hiểu những chiếc túi
cũ này là nguồn thu nhập chính cho cuộc sống của bà và tôi đã rất ân hận về sau
khi tự dằn vặt mình là sao không mua giùm bà vài cái.
Ði chợ trời chủ yếu là
để quan sát chứ không có nhu cầu mua sắm nên tôi thường đứng lâu ở một nơi, đảo
mắt nhìn xung quanh. Một phụ nữ đứng tuổi đứng rao chào bán loại keo dính kim
loại, một hộp chỉ 15 rub mà mãi không có khách mua. Tôi nhẩm tính phải bán được
hơn 4 chai mới được $1. Vậy một ngày bà có thể bán được bao nhiêu chai để đủ sống?
Thấy tôi chăm chú nhìn, bà quay sang cười hỏi: “Này, dân tộc Việt Nam, tìm cái
gì ở đây thế?” Cả hai bắt chuyện, bà kể, trước đấy bà dạy trung cấp kỹ thuật, có
dạy cả học sinh từ Việt Nam sang du học nữa. Chồng bà cũng dạy sinh viên Việt
Nam. Hỏi về cuộc sống hiện tại, bà ngán ngẩm lắc đầu nói đồng lương hưu chết
đói, “kiếm sống từng bữa chứ tương lai vô định không biết sẽ đi đến đâu.” Khi
nghe tôi kể về nơi tôi từng học trước đây trên lãnh thổ Liên Xô (cũ), bà phẩy
tay: “Ðó không phải là thành phố của chúng tao. Ðó không phải là Nga.” Câu nói
của bà toát lên đặc trưng cố hữu của dân Nga: Tự kiêu về nguồn gốc của mình và
tự ti vì cứ nghĩ rằng người ta không coi trọng mình.
Một điểm đặc biệt của
chợ trời Nga là bày bán rất nhiều những gì thuộc về “tàn tích, tàn dư” thời Xô
Viết. Chân dung các lãnh tụ Cộng Sản như Lenin, Kark Marx... nằm la liệt giữa
những đống xoong nồi lủng củng, giữa đám đất lầm bụi... khiến người xem thoáng
có những suy tưởng so sánh chua xót, mỉa mai và hài hước về lý tưởng cao xa và
thực tế trần trụi.
Những lá cờ nhung màu
đỏ thêu chỉ vàng ca ngợi về những thành quả của Chủ Nghĩa Xã Hội với những câu
khẩu hiệu đanh thép, tự tin về sự bất diệt của Marx-Lenin... giờ nằm lăn lóc
trên các tấm ni lông sơ sài đặt trên mặt đất. Một quá khứ đầy hoang tưởng.
Khi nghe lời thán phục
về giá cả rẻ ở Nga, người bạn Nga bĩu môi: “Ðó chỉ là rẻ đối với dân du lịch có
Ðô La Mỹ thôi chứ dân Nga khổ lắm. Bởi vì đồng lương nhận bằng rub hầu như vẫn
vậy nhưng vật giá lại tăng theo sự lạm phát. Tuy vật giá tăng chưa bằng với mức
độ mất giá của đồng rub, đối với dân chúng thì đó cũng là sự quá tải về ngân
sách thu chi của gia đình. Ví dụ, trước khi bị Mỹ và Tây Phương cấm vận và giá
dầu đang cao, 30 rub đổi được $1, còn giờ đây thì phải gần 66 rub mới được $1.
Giá cả thiết yếu tăng ít nhất 30% nên mới có nghịch lý “du khách thì rẻ, người
Nga thì đắt.” Sự mất giá của đồng rub quả là cơn ác mộng của người bản xứ.
Người đóng giả các
nhân vật nổi tiếng để kiếm sống. Cô gái đóng vai nữ hoàng Nga, Ekaterina Ðệ Nhị,
phía xa là Stalin, Quảng Trường Ðỏ.
Với một bề ngoài hào
nhoáng, nước Nga đang vật lộn, trăn trở với thực tế khắc nghiệt, phũ phàng. Tổng
thống Putin trong phát biểu trả lời phỏng vấn Thông Tấn Xã Nga, TASS, nói rằng
việc đồng rub mất giá... có lợi cho ngân sách. Ông lý luận: “Trước đây chúng ta
bán hàng, $1 thu về được 32 rub. Còn bây giờ cũng món hàng đó, $1 chúng ta thu
được... 45 rub. Ngân sách được tăng lên chứ không phải là giảm đi!”
Có lẽ đây là phép trấn
an dư luận và tự trấn an bản thân chứ hơn ai hết, ông Putin thừa biết Nga phải
mất 10 năm phát triển kinh tế nữa mới vượt qua được khủng hoảng tài chính do cấm
vận lúc này.
Phải khách quan mà nhận
xét thì những biện pháp kích thích “lòng tự hào dân tộc” của chính phủ Nga hiện
tại đã mang lại kết quả tích cực giúp dân Nga quên đi phần nào những khó khăn
kinh tế.
Khi đi chợ trời ở Nga
khoảng cuối Tháng Chín, lúc mặc cả mua một món đồ cổ, tôi trả giá bằng USD và
nói là người bán sẽ có lợi khi giữ ngoại tệ vì đồng rub Nga mất giá từng ngày.
Người này hùng hồn trả lời: “Hãy chờ đấy, vài ngày nữa máy bay Nga sẽ ném bom
Syria và đồng rub sẽ có giá trở lại!” Y như rằng, ngày 30 Tháng Chín, Nga tham
chiến trên không tại Syria và đến giữa tháng 10 thì $1 đổi chỉ được còn khoảng
63 rub. Nhưng hiệu quả của sự “lên gân cơ bắp” bằng quân sự không giữ được lâu:
Ðến Tháng Mười Hai, đồng rub tiếp tục đà mất giá. Một đô la đổi được đến 70
rub.
Trong bối cảnh bị
phương Tây cấm vận, nước Nga đang gồng mình để tồn tại. Những biểu tượng búa liềm
Xô Viết lại xuất hiện nhiều hơn trên những đường phố, tượng Kark Marx vẫn đứng
sừng sững ngay sát Quảng Trường Ðỏ, một số tượng các lãnh tụ Xô Viết cũ được phục
chế... Nước Nga đang lấy “hào quang” của quá khứ để trấn an hiện tại.
Giới chính trị Nga hiểu
được tâm lý người Nga, và lợi dụng tâm lý ấy. Bản tính chung của người Nga là vừa
giản dị đến dân dã (hay gọi là cục mịch cũng không sai), vừa rất đôn hậu.
Tôi
nhớ mãi một buổi chiều ngồi trầm tư trong công viên nơi thi hào Pushkin từng ngồi
để viết nên những bài thơ tình bất hủ thì một người đàn bà Nga đẩy xe nôi dẫn
cháu đi dạo ngang qua. Bà dừng lại âu yếm nhắc tôi - một người ngoại quốc hoàn
toàn xa lạ: “Cẩn thận, trời lạnh lắm, ngồi như vậy có thể bị cảm đấy!” Thật sự
là tôi cảm động, sống mũi cay xè.
Tôi bỗng nhớ lại thời
điểm đứng ở Quảng Trường Ðỏ, vỗ vai nói với người đóng giả Lenin:
“Nếu không có
Lenin thật thì anh đã không phải làm Lenin giả để kiếm sống như vầy. Nước Nga xứng
đáng nhiều lần hơn thế này.”
Phương Đoàn