Ông Trần Quang Cơ kết
luận Hội nghị Thành Đô là một "vết nhơ về ngoại giao của Việt Nam"
Hội nghị Thành Đô, họp
tại tỉnh Tứ Xuyên, ngày 3-4/9/1990 đạt được thỏa thuận bình thường hóa quan hệ
hai nước Việt Nam và Trung Cộng.
Tuy vậy, sự kiện này
đến nay vẫn gây tranh cãi đối với không ít người Việt vì cho rằng có những bí mật
trong đàm phán đã không được Việt Nam công bố.
Một quan điểm gần đây của một học giả người Mỹ đưa ra trong một cuốn sách
về đường lối đối ngoại của Việt Nam.
Trong cuốn sách
Changing Worlds: Vietnam's Transition from Cold War to Globalization, tác giả
David W.P. Elliott kể lại nội dung hội nghị Thành Đô.
Sách - có tựa tạm dịch
là Thế giới đổi thay: Biến chuyển của Việt Nam từ Chiến tranh Lạnh đến Toàn cầu
hóa - được xuất bản lần đầu năm 2012 và in lại, có bổ túc, vào năm 2014.
Tác giả dành một phần
của chương 4 để viết chi tiết về hội nghị Thành Đô diễn ra tháng 9/1990 dưới
tiêu đề: “Thay đổi đối tác trong một thế giới đổi thay (1990-1991).
Tác giả David W.P.
Elliot, đã dành 40 năm làm việc chặt chẽ với người dân và chính phủ của Việt
Nam, ghi chép lại những diễn biến của nhà nước Việt Nam.
Ông Elliot viết:
“Mùa hè năm 1990, những thay đổi chính sách đối ngoại của Việt Nam bắt nguồn từ
các sự kiện diễn ra trong năm trước đó. Hồi ký 'Hồi ức và Suy nghĩ' của ông Trần
Quang Cơ, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, đề cập đến bước chuyển này.
Thời điểm đó, Bộ
chính trị đang tranh luận về việc có nên cố gắng thỏa thuận với Trung Cộng dựa
trên hệ tư tưởng chung (‘giải pháp Đỏ’) hoặc tham gia các hoạt động ngoại giao
của Liên Hợp Quốc, gồm Hoa Kỳ và Asean.
Tháng 8/1990, cố vấn
Phạm Văn Đồng nói với ông Cơ: "Chúng ta phải tuân thủ luật chơi của Liên
Hiệp Quốc và Hội đồng Bảo an, của Hoa Kỳ và châu Âu.
Chúng ta cần tận dụng
nhân tố Hoa Kỳ trong tình hình mới... Kế hoạch này rất tốt về lý thuyết, nhưng
quan trọng là làm thế nào thực hiện nó. Chúng ta không nên đưa ra yêu cầu quá lớn
[kiểu như là] 'nắm chắc kết quả bầu cử Campuchia). "Nếu bạn bè của chúng
ta được 50% trong cuộc tổng tuyển cử, đó sẽ là kết quả lý tưởng".
Không lâu sau cuộc
trò chuyện này, Bắc Kinh đã mời khẩn cấp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh, Cố vấn Phạm Văn Đồng hội đàm ở Thành Đô (Trung Cộng giải
thích việc chọn địa điểm hẻo lánh này để bảo mật).
Mục tiêu của cuộc gặp
là “nỗ lực giải quyết vấn đề Campuchia và đạt được bước đột phá trong việc bình
thường hóa quan hệ Trung Cộng-Việt Nam”. Đây là một điều bất ngờ, vì Trung Cộng
đến thời điểm đó kiên quyết khẳng định vấn đề Campuchia phải được giải quyết
‘theo ý họ’ trước khi đàm phán việc bình thường hóa với Việt Nam.
Các ông Võ Nguyên
Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
Cứu chủ nghĩa xã hội
Ông Trần Quang Cơ
cho rằng Trung Cộng bây giờ đã phải thay đổi lập trường, vì ưu tiên hàng đầu của
họ là phát triển kinh tế đã bị trì hoãn bởi các biện pháp biện pháp trừng phạt
của phương Tây sau vụ Thiên An Môn.
Việc các bên khác
(Hoa Kỳ, Nhật Bản và Asean) tăng tốc ngoại giao, loại bỏ yếu tố là cả Trung Cộng
và các nước Asean đều cho rằng Việt Nam chiếm đóng Cambodia, cùng mối quan ngại
của Asean về ý đồ của Trung Cộng trong khu vực khiến Bắc Kinh khó kiểm soát giải
pháp Campuchia. Do vậy mà nước này muốn nhanh chóng đạt thỏa thuận với Việt
Nam.
Đoàn lãnh đạo cao cấp
Việt Nam gặp phía Trung Cộng tại Thành Đô đầu tháng 9/1990.
Đáng lưu ý, đoàn Việt
Nam không có Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, người mà Bắc Kinh xem là “chống
Trung Cộng quá mức”.
Trong cuộc họp Bộ
Chính trị, ông Thạch đã bày tỏ sự phản đối về cả ‘giải pháp Đỏ’ ở Campuchia lẫn
việc Hà Nội đặt cược tất cả vấn đề ngoại giao vào ván bài lợi ích chung giữa Việt
Nam và Trung Cộng trong việc "cứu chủ nghĩa xã hội", theo chủ trương
của Nguyễn Văn Linh và một số ủy viên bộ chính trị khác.
Lập trường của ông
Thạch đã bị suy yếu khi ông không chứng minh được kết quả nếu chơi ‘quân bài Mỹ’.
Cuối cùng, Hà Nội quyết định loại bỏ ông Thạch nhằm xoa dịu Bắc Kinh.
Chỉ có Tổng bí thư
Giang Trạch Dân (phải) cùng Thủ tướng Lý Bằng (giữa) tham dự Hội nghị Thành Đô
Xúc phạm có chủ đích
Thoạt đầu Bắc Kinh
thuyết phục ông Phạm Văn Đồng đến hội nghị Thành Đô bằng chỉ dấu là Đặng Tiểu
Bình sẽ tham dự nhưng thực tế thì không.
Phía Trung Cộng chỉ
có Tổng bí thư Giang Trạch Dân cùng Thủ tướng Lý Bằng.
Ông Võ Văn Kiệt sau
đó cho rằng đây là một sự ‘xúc phạm có chủ đích’ với Việt Nam, và rằng đoàn Việt
Nam "đã rơi vào một cái bẫy" khi cử lãnh đạo cấp cao đi hội đàm mà
không gặp người đồng cấp của Trung Cộng.
Đoàn Việt Nam nhanh
chóng nhận ra Trung Cộng không hề quan tâm đến ‘giải pháp Đỏ’ cũng như hình
thành một liên minh ý thức hệ với Việt Nam.
Trung Cộng thường viện
dẫn đến khái niệm ‘đoàn kết giữa hai đảng’ chỉ khi có điều gì đó phù hợp với lợi
ích riêng của họ và vẫn tiếp tục khước từ lời kêu gọi của Việt Nam muốn Trung Cộng
thay Liên Xô làm ‘tường thành của chủ nghĩa xã hội’ trong một thế giới đổi
thay.
Nhìn nhận hội nghị
Thành Đô là một ‘thất bại ngoại giao’ của Việt Nam, ông Trần Quang Cơ giải
thích nguyên do chính là Việt Nam đã tự lừa dối bằng cách bấu víu vào niềm tin
rằng Trung Cộng quan tâm đến một liên minh ý thức hệ để chống lại ‘diễn biến
hoà bình’ của đế quốc nhằm triệt tiêu các nước cộng sản còn lại.
Sự việc càng tồi tệ
hơn khi Bắc Kinh hân hoan tiết lộ băng ghi âm các cuộc hội đàm cho thấy các nhà
lãnh đạo Việt Nam nhất trí với việc lực lượng chống Hun Sen sẽ chiếm ưu thế
trong chính phủ liên minh.
Điều đó có nghĩa là
Hà Nội bỏ rơi Hun Sen, nhân vật được cho là ‘người của Việt Nam’ trên chính trường
Campuchia.
Một trong những mục
tiêu của việc Bắc Kinh hé lộ băng ghi âm là vẽ nên hình ảnh Việt Nam ‘gian dối
và không đáng tin cậy’. Và họ đã thành công: trong một cuộc họp Bộ Chính trị
tháng 5/1991, ông Phạm Văn Đồng thừa nhận hối tiếc vì “bị cuốn vào ủng hộ một
chính sách khôn ngoan”.
Ông Nguyễn Cơ Thạch
cũng nói với ông Nguyễn Văn Linh là ông Linh đã phạm phải một ‘sai lầm nghiêm
trọng’.
Đúng ngày quốc khánh
Việt Nam 2/9/1990, một ngày trước khi khai mạc hội nghị Thành Đô, ông Đỗ Mười
chấp nhận lời kêu gọi của Lý Bằng về việc ‘hai nước láng giềng’ (chứ không phải
‘hai đồng chí’) bình thường hóa quan hệ bình thường và tìm giải pháp chính trị
cho vấn đề Campuchia.
Động lực của việc Hà
Nội nhượng bộ Thành Đô được cho là “vì lợi ích của việc bình thường hóa quan hệ
với Trung Cộng”, mang tính thực dụng (bù đắp nguồn viện trợ của Liên Xô nay
không còn nữa và nhượng bộ sức ép của Trung Cộng), ngoài ra cũng có một phần của
ý thức hệ.
Các ông Nguyễn Văn
Linh và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đích thân bay đến Phnom Penh và cố gắng
thuyết phục Hun Sen chịu câu kết với quân Pol Pot trước viễn cảnh “đế quốc đang
muốn tiêu diệt chủ nghĩa xã hội”. Họ còn nói rằng Campuchia có thể đóng góp để
cứu chủ nghĩa xã hội bằng cách tiến tới sự hòa giải giữa cộng sản theo Hun Sen
với Đảng Cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ).
Ông Lê Đức Anh lập
luận: "Người Mỹ và phương Tây muốn có một cái cớ để loại bỏ chủ nghĩa cộng
sản. Họ đang loại bỏ chủ nghĩa này ở Đông Âu. Họ thông báo rằng sẽ tiến tới loại
bỏ chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng họ là kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm. Chúng ta phải tìm kiếm đồng minh. Đồng minh đó là Trung Cộng”.
‘Giải pháp Đỏ’ cũng
khiến Campuchia từng bước trở nên xa cách Việt Nam. Đại sứ Việt Nam thông báo rằng
sau cuộc họp này, thái độ của Hun Sen với Việt Nam đã thay đổi.
Ông Võ Văn Kiệt
trong cuộc gặp Hun Sen
Không quan thầy, chẳng tiểu
đệ
Kết cục, theo tác giả
David W.P. Elliott, là một Việt Nam không có quan thầy cộng sản và cũng chẳng
còn tiểu đệ cộng sản.
Ông cho biết ngay cả
hồi ký thẳng thắn của Trần Quang Cơ về Hội nghị Thành Đô cũng không đề cập đến
tin về một đề nghị của Trung Cộng muốn “đi xa hơn vấn đề Campuchia”.
Một tờ báo Anh dẫn
nguồn tình báo phương Tây cho rằng Trung Cộng đề nghị thay thế nguồn cung hàng
hóa mà Liên Xô cắt đứt, và trả lại một phần Trường Sa.
Để đổi lại sự giúp đỡ
của họ, Bắc Kinh yêu cầu Hà Nội ‘phối hợp tương thích’- nói cách khác là ‘phụ
thuộc’ vào chính sách đối ngoại của Bắc Kinh, theo một nguồn tình báo ở
Bangkok.
Nguồn này được dẫn lời
nói Hà Nội đã suy nghĩ rất lâu trước khi bác bỏ.
Tuy vậy, David W.P.
Elliott cho rằng tình hình ngày càng xấu đi của Việt Nam sau đó khiến Việt Nam
phải miễn cưỡng chấp nhận vai trò phụ thuộc mà Trung Cộng áp đặt, dù thậm chí
không có ‘cà rốt’.
Có thể thấy nhận định
và tư liệu về Thành Đô trong cuốn sách của David W.P. Elliott dựa chủ yếu vào hồi
ký của nguyên thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Việt Nam Trần Quang Cơ.
Cuốn sách này chỉ
công bố không chính thức năm 2001, đụng chạm tới những vấn đề vẫn được giữ kín
về chính trị nội bộ và quan hệ với các nước lớn trong đó có Trung Cộng.
Ông Trần Quang Cơ đã
qua đời tại Hà Nội tháng Sáu 2015.
*****
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.