Tháng tư năm nay,
chính phủ Việt Nam công bố Dự thảo 4 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo khiến một số
cộng đoàn các tôn giáo trong nước lên tiếng phản đối.
Một nhóm các tổ chức
xã hội dân sự cùng các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế cũng ra Tuyên bố chung
phản đối Dự thảo luật này. Bản Tuyên bố với chữ ký của 27 tổ chức trong đó có Hội
Ân xá Quốc tế đã nêu rõ các quan ngại về nội dung của Dự thảo. Câu hỏi được đặt
ra là: Vì sao Dự thảo luật tín ngưỡng, tôn Giáo này gây quan ngại và bị chống đối?
Sau khi đọc toàn văn
Dự thảo - gồm 11 Chương, 11 Mục và 68 Điều - chúng tôi cảm thấy ngột ngạt khó
thở vì đã quen sống trong bầu không khí tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Miền Nam
Việt Nam trước 30-4-1975 và nay đang sống trong một nước dân chủ bậc nhất thế
giới như Hoa Kỳ này. Như thế là bởi vì tất cả các Chương, Mục, Điều khoản nào
cũng thấy các nút mở, rồi kèm ngay các nút thắt quá chặt chẽ về mặt pháp lý, đối
với một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người: quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo.
Nói chung về mặt hình thức, so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/UBTVQH-K11 được áp dụng bao lâu nay tại Việt Nam, thì Dự luật tín ngưỡng, tôn giáo mới có tiến bộ hơn, nhưng lại thắt chặt khi thực thi các quyền tự do này trên thực tế. Nhưng xét về nội dung thì Dự luật mới phản tiến bộ, không phù hợp với chiều hướng dân chủ hóa không thể đảo ngược tại Việt Nam, vì cốt lõi vẫn duy trì chủ trương của đảng CSVN coi tôn giáo là một đối tượng phải đề phòng, nhất là những tôn giáo có tính tổ chức hệ thống, cơ cấu cao dưới sự lãnh đạo có hệ thống quốc tế và quốc nội, của hàng giáo phẩm. Vì tính chất này mà Dự luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có vài điều khoản qui định về quyền tự do tín ngưỡng có tính chiếu lệ đối với quyền tự do tín ngưỡng; còn hầu hết các điếu khoản khác thì qui định cho quyền tự do tôn giáo.
Nói chung về mặt hình thức, so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/UBTVQH-K11 được áp dụng bao lâu nay tại Việt Nam, thì Dự luật tín ngưỡng, tôn giáo mới có tiến bộ hơn, nhưng lại thắt chặt khi thực thi các quyền tự do này trên thực tế. Nhưng xét về nội dung thì Dự luật mới phản tiến bộ, không phù hợp với chiều hướng dân chủ hóa không thể đảo ngược tại Việt Nam, vì cốt lõi vẫn duy trì chủ trương của đảng CSVN coi tôn giáo là một đối tượng phải đề phòng, nhất là những tôn giáo có tính tổ chức hệ thống, cơ cấu cao dưới sự lãnh đạo có hệ thống quốc tế và quốc nội, của hàng giáo phẩm. Vì tính chất này mà Dự luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có vài điều khoản qui định về quyền tự do tín ngưỡng có tính chiếu lệ đối với quyền tự do tín ngưỡng; còn hầu hết các điếu khoản khác thì qui định cho quyền tự do tôn giáo.
Điều này cho thấy đảng
CSVN vẫn lo sợ tôn giáo bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành nguy cơ lật đổ được
chế độ. Vì vậy, do tình thế bắt buộc phải hội nhập với thế giới bên ngoài, các
nghị quyết của đảng CSVN được thể chế hóa thành pháp luật thông qua Quốc hội “đảng
cử, dân bầu”. Sau khi thành luật, các văn kiện này được nhà cầm quyền sử dụng
như một công cụ pháp lý của giai cấp thống trị để kiểm soát chặt chẽ, trấn áp kịp
thời mọi sự phản kháng của các tôn giáo bằng pháp luật; trái với vai trò của luật
pháp trong chế độ dân chủ pháp trị, là thể hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo cần được luật pháp qui định và nhà cầm quyền phải tôn trọng.
Dự thảo luật tín ngưỡng,
tôn giáo vẫn không tôn trọng quyền độc lập tự chủ của các giáo hội và các tín đồ;
can thiệp sâu rộng vào cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành và các hoạt động tín
ngưỡng của các giáo hội và tín đồ các tôn giáo (Chương III: Đăng ký sinh hoạt
tôn giáo và các hoạt động tôn giáo. Từ Điều 13 đến Điều 17); cái gì cũng phải
xin phép, phải làm theo qui định, có được cơ quan đặc trách về tôn giáo các cấp
có thẩm quyền từ trung ương đến các địa phương cho phép mới được thực hiện (Chương
X: Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, từ điều 58 đến 65). Ngoài sự kềm kẹp
của các cơ quan chính quyền, còn phải chịu sự giám sát của “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam”, vốn là tổ chức ngoại vi của đảng CSVN (Điều 61). Điều này cho thấy tín
ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam không còn là một quyền tự do của nhân dân mà là một
ân huệ của nhà cầm quyền ban cho những tín đồ và giáo hội nào ngoan ngoãn tuân
phục chủ trương chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của đảng CSVN và Nhà nước.
Chẳng hạn, việc mở
trường lớp, chương trình giảng dạy, kết quả đào tạo, lý lịch các chức sắc tôn
giáo phải được nhà cầm quyền thông qua (Các Điều 22, 23, 24). Việc phong chức, bổ
nhiệm hàng giáo phẩm của các giáo hội trong nước hay có liên hệ đến nước ngoài,
đều phải được phép trước của nhà cầm quyền (Từ Điều 32 đến Điều 42 thuộc
Chương V: Hoạt động tôn giáo)
Đúng như nhận xét
sau chuyến đi Việt Nam tìm hiểu thực tế hồi tháng 7 năm 2014 của Ông Heiner
Bielefeldt, Báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về Tự do Tôn giáo và Tín
ngưỡng, quyền tự quản của các tổ chức tôn giáo độc lập không được nhà nước công
nhận tại Việt Nam vẫn bị hạn chế; và sinh hoạt đạo giáo của họ không được an
toàn, thường xuyên bị sách nhiễu, đe dọa. Và cũng đúng như Bản Tuyên bố với chữ
ký của 27 tổ chức bao gồm Hội Ân xá Quốc tế đã nêu rõ các quan ngại về nội dung
dự luật này đi ngược lại với quyền tự do tôn giáo của công dân với các hạn chế
vượt mức cho phép của các luật nhân quyền mà Việt Nam có nghĩa vụ phải tuân thủ.
Vậy đảng và nhà cầm quyền CSVN cần phải làm gì để Dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo không còn bị chống đối?
Vậy đảng và nhà cầm quyền CSVN cần phải làm gì để Dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo không còn bị chống đối?
Trước hết, Đảng CSVN
cần thay đổi cách nhìn đối với tôn giáo theo hướng tích cực (một
quyền tự do, vì hạnh phúc của nhân dân, góp phần vào nền đạo đức xã hội) và
để cho Quốc hội Việt Nam làm luật tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng tôn trọng, bảo
vệ và tự do hành xử quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, thay vì coi
tôn giáo là đối tượng phải đề phòng, tiếp tục chủ trương dùng luật pháp như
công cụ trấn áp tôn giáo, để bảo vệ sự tồn tại thêm thời gian cho đảng CSVN và
chế độ đương quyền.
Luật chỉ nên
qui định những gì đặc thù của tín ngưỡng, tôn giáo, còn lại áp dụng các luật lệ
phổ thông theo từng lãnh vực liên quan đến đời sống, sinh hoạt các thể nhân
(các công dân tín đồ) và pháp nhân (các giáo hội). Nghĩa là Luật cần tạo được sự
an toàn, an tâm, thoải mái sống và sinh hoạt theo tín ngưỡng hay niềm tin tôn
giáo của các tín đồ và quyền độc lập tự chủ của các giáo hội trong việc tổ chức
cơ cấu, nhân sự điều hành và quyền tự do hành đạo và truyền đạo trong khuôn khổ
luật pháp quốc gia được áp dụng chung cho mọi công dân bình thường, có hay
không có tín ngưỡng, tôn giáo, thuộc mọi giai tầng xã hội, sắc tộc, miễn không
phương hại đến quyền lợi người khác và trật tự an toàn xã hội.
Nếu thực hiện theo
hướng trên, nhân dân có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ thoát khỏi nỗi sợ hãi nhà nước
khi có những sinh hoạt thể hiện niềm tin của mình. Đồng thời nhà nước cũng sẽ
tiết kiệm được ngân sách phải chi tiêu cho quá nhiều các cơ quan, nhân sự các cấp
chính quyền chỉ để làm công việc quản lý, giám sát, trấn áp tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân.
2.- Quốc hội
Việt Nam, với tinh thần cầu thị, cần tham khảo ý kiến rộng rãi trong giới tín đồ
và các giáo hội, để biết hình thức, nội dung Luật tín ngưỡng, tôn giáo phải như
thế nào mới đáp ứng được ý muốn của nhân dân.
Nhân đây xin được nhắc
lại một “Dự thảo Luật Sinh hoạt Tín ngưỡng, Tôn giáo tại Việt Nam” do đại biểu
Quốc Hội khóa 8 Phan Khắc Từ đệ nạp Văn phòng thường vụ Quốc hội, vào khoảng
năm 1990-1991. Trong thời gian này, được mời làm cố vấn pháp luật cho Đại biểu
Phan Khắc Từ, chúng tôi đã được ủy thác khởi thảo dự thảo luật này. Sau ba lần
mời họp lấy ý kiến đóng góp của khoảng 20 luật gia, luật sư thân hữu trong đó
có cố Giáo sư Tiến Sĩ Vũ Tâm Tư, nguyên Giáo sư Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, và sự
tham khảo riêng với một số chức sắc các tôn giáo quen biết, chúng tôi đã đúc kết
thành “Dự thảo Luật Sinh hoạt Tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam” để sau đó Đại
biểu Phan Khắc Từ đệ trình Quốc hội (1).
Tất nhiên, vào thời
khoảng 1990-1991, đảng CSVN mới chuyển đổi từ chủ trương “nghị trị” (cai trị bằng
nghị quyết của đảng CSVN) qua “pháp quyền” (cai trị bằng luật pháp được Quốc hội
thể chế hóa từ các ngị quyết của đảng CSVN), nên “Dự thảo Luật Sinh hoạt Tín
ngưỡng, Tôn giáo tại Việt Nam” này còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, quyền độc lập
tự chủ của các giáo hội và quyền sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ đã được xác
lập tương đối đầy đủ trong Dự thảo luật này. Chúng tôi nghĩ, các Đại biểu Quốc
hội hiện nay có thể dùng Dự thảo luật đó làm tài liệu tham khảo khi làm Luật về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.
***
CHÚ THÍCH
(1) Dự thảo Luật
Sinh Hoạt Tín Ngưỡng, Tôn Giáo Tại Việt Nam được Đại biểu Phan Khắc Từ nạp cho Văn
phòng Ủy ban Thường Vụ Quốc hội Khóa 8, đã không được hồi báo. Sau gần một năm,
phái đoàn Văn phòng Thường vụ Quốc hội, trong chuyến đi thăm lấy ý kiến trước
khóa họp thường kỳ, có đến văn phòng Đại biểu Quốc hội Phan Khắc Từ. Nhân dịp
này, chúng tôi có phàn nàn là dù có đưa Dự thảo luật do Đại biều Phan Khắc Từ đệ
nạp hay không vào chương trình làm luật của Quốc hội, cũng phải có văn thư
chính thức trả lời cho biết đã nhận và có đưa vào nghị trình khóa họp nào Quốc
hội hay không. Chúng tôi cho rằng sự im lặng này sẽ có tác dụng tiêu cực đối với
các đại biểu có thiện chí muốn đóng góp tích cực vào công cuộc soạn thảo pháp
luật. Tất nhiên, vị Trưởng đoàn lúc đó đã đáp lại bằng sự ghi nhận, rút kinh
nghiệm…
Thiện Ý
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.