Nói đến mỹ thuật miền
Nam Việt Nam trong giai đoạn trước 1975, chúng ta nhớ tới những tên tuổi như
Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Nguyễn Siên, Văn
Đen, Nguyễn Anh, Tú Duyên, Lưu Đình Khải, Đinh Cường, Tạ Tỵ, Nguyễn Phước, Trịnh
Cung, Nguyên Khai..v..v.., Chúng ta cũng không nên quên nhắc đến một trong những
mảng mỹ thuật đặc sắc miền Nam, đó là mảng mỹ thuật của Thiên Chúa Giáo mà người
ta quen gọi là Công Giáo. Nhân kỷ niệm ngày Lễ Giáng Sinh, tôi xin giới thiệu cùng
độc giả vài hoạ phẩm có nội dung liên quan đến ngày chào mừng Đấng Chirst mà
người Việt mình hay gọi là Chúa Giê-su, ra đời.
Theo Wikipedia và các
sách Phúc Âm, Chúa Giê-su là người Do Thái, sinh ra tại Belem, gần Jesusalem. Giê-su
là con của Maria và Guise. Khi Giêsu sinh ra, các mục đồng được thiên sứ
báo tin đã đến thờ lạy và mấy nhà thông thái (còn gọi là mấy nhà chiêm tinh hay mấy đạo sĩ,
hoặc ba vua) từ phương Đông xa xôi, được dẫn dắt bởi một ngôi sao lạ, đã tìm đến
để tôn thờ Giêsu. Hầu hết các tác phẩm hoạ, tạc hình Chúa Giê-su đều miêu tả
ông là người da trắng, tóc và râu đều dài như nguyên gốc người Do Thái. Tuy
nhiên, khi đạo Thiên Chúa Giáo truyền đi xa vào các quốc gia từ Âu sang Á, chân
dung Chúa Giê-su, Maria và Guise, được các hoạ sĩ điạ phương đó “Dân tộc hoá”.
Nghĩa là các nghệ sĩ cố tình mang những đặc điểm
sắc thái văn hoá của điạ phương, xứ sở mình vào tranh, tượng tôn giáo. Để những
hình ảnh các vị thánh linh gần gụi hơn với cư dân bản địa, họ vẽ tranh, nặn tượng,
mô phỏng lại địa điểm, không gian, nhân vật, phục sức hay toàn bộ nội dung bức
tranh, thuần theo phong cách địa phương.
Tỷ dụ bức tượng đấng
Ki-tô (Giê-su) chịu tội đóng đinh ở Panama, Guatemala, và Peru được điêu khắc
hay tạo tác có màu da đen. Hay bức tranh hoạ lại bữa ăn cuối của chúa Giê-su,
“Tiệc ly”, “The Last Supper” ở nhà thờ Cathedral
tại Cusco, được các hoạ sĩ Peru, điểm thêm một khay lớn có hình con chuột lang nướng
(The guinue roast) ngay chính giữa bàn tiệc. Chuột lang nướng là một đặc sản rất
được ưa thích của người Peru.
Ở Việt Nam, ngoài những
tranh và tượng miêu tả hình ảnh Chúa Giê-su theo nguyên gốc, một số hoạ sĩ cũng
đã theo đuổi phong cách “Dân tộc hoá”. Trong Nam, trước năm 1975, hoạ sĩ đã vẽ
tranh và bỏ cả đời mình cho nghệ thuật tranh Công Giáo phải kể là Nguyễn Anh. Họa
sĩ Nguyễn Anh tên thật là Nguyễn Văn Anh, sinh năm 1914 tại Sài Gòn, tốt nghiệp
thủ khoa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, năm 1935. Ông tu nghiệp tại trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật
Paris (Atelier Jean Dupas) trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1950 và là giáo
sư trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn từ 1962 đến 1967. Ông đảm nhiệm chức
vụ giám đốc trường này năm 1967-1968 và đã có nhiều triển lãm trong nước cũng
như quốc tế v.v…Ông đã dự buổi triển lãm Mỹ thuật tôn giáo tại La Mã năm 1950.
Trong bộ sưu tập tranh
Công Giáo của cố linh mục Đa Minh Trần Thái Hiệp, có 4 bức tranh cùng chủ đề Giáng
Sinh của hoạ sĩ Nguyễn Anh. Dưới đây là hai bức tôi tạm đặt tên là Giáng Sinh 1
và Giáng Sinh 2.
Nguyễn Anh, bột màu
Phần lớn tranh ông thuộc
thế giới sắc màu của phái Ấn Tượng nhưng trong bức này bố cục và nội dung lại
ngiêng về nét đẹp tâm linh của thần thánh, mờ ảo của tưởng tượng. Nó mang vẻ đẹp
của chủ nghĩa Tượng Trưng. Ông đã miêu tả hình ảnh người mẹ(Maria) ôm con(Giê-su)
đầy thiết tha và mẫn cảm. Tư thế ngồi vòng cung của bà đã ôm trọn được đứa bé
như một chở che, bảo bọc. Mẹ "Maria" trong tà áo dài và mớ tóc búi(của
phụ nữ miền Nam) thả lỏng trông đằm thắm, dịu dàng biết bao nhiêu. Nét nhìn của
bà xuống đứa con là đại dương của bao la và lòng hy sinh cao cả. Không gian
chung quanh hai nhân vật chính là hoa, chim và thiên thần.
Những đốm trắng nở
ra khi mờ khi tỏ trên nền đen tôn vinh hình ảnh hai mẹ con nổi bật với hai vầng
hào quang rạng rỡ. Họa phẩm đã lột tả được góc tối sâu kín của tâm linh và cảm
xúc. Nó không những là một tặng phẩm thiêng liêng, quý giá của ngày Chúa Giê Su
chào đời mà còn gần gụi hơn với hình ảnh tình mẫu tử cao quý của nhân gian thường
tục. Bức tranh quả đã đưa được phần dân tộc hoá thần thánh lên một bậc cao.
Phần lớn tranh ông thuộc thế giới sắc màu của phái Ấn Tượng nhưng trong bức này bố cục và nội dung lại ngiêng về nét đẹp tâm linh của thần thánh, mờ ảo của tưởng tượng. Nó mang vẻ đẹp của chủ nghĩa Tượng Trưng. Ông đã miêu tả hình ảnh người mẹ(Maria) ôm con(Giê-su) đầy thiết tha và mẫn cảm. Tư thế ngồi vòng cung của bà đã ôm trọn được đứa bé như một chở che, bảo bọc. Mẹ "Maria" trong tà áo dài và mớ tóc búi(của phụ nữ miền Nam) thả lỏng trông đằm thắm, dịu dàng biết bao nhiêu. Nét nhìn của bà xuống đứa con là đại dương của bao la và lòng hy sinh cao cả.
Không gian chung quanh hai nhân vật chính là hoa, chim và thiên thần. Những đốm trắng nở ra khi mờ khi tỏ trên nền đen tôn vinh hình ảnh hai mẹ con nổi bật với hai vầng hào quang rạng rỡ. Họa phẩm đã lột tả được góc tối sâu kín của tâm linh và cảm xúc. Nó không những là một tặng phẩm thiêng liêng, quý giá của ngày Chúa Giê Su chào đời mà còn gần gụi hơn với hình ảnh tình mẫu tử cao quý của nhân gian thường tục. Bức tranh quả đã đưa được phần dân tộc hoá thần thánh lên một bậc cao.
Nguyễn Anh, sơn dầu
Khung cảnh nơi Chúa Giê-su
chào đời là khoảng đất trống giữa vườn cây cạnh một ngôi nhà tranh trong một đêm
trăng của miền Nam nhiệt đới. Kỹ thuật dùng màu tương phản tạo ánh trăng soi rõ
thân cây và hoa lá của ông, trông như những bụi cây ngày nay có giăng đèn Giáng
Sinh vậy. Tất cả các nhân vật trong tranh cùng 3 nhân vật chính là Đức Cha, Đức
Mẹ và Chúa Giê-su trên đầu có hào quang, đều trang phục quần và áo bà ba. Hai
con trâu tề tựu bên cạnh là hình ảnh của một thôn quê Việt Nam đặc thù. Các thiên
thần chơi sáo, đàn tranh và tỳ bà trong khoảng không gian vàng sáng của hào
quang rạng chiếu. Một thiếu phụ đầu đội nón lá, quang gánh, đứng gần đấy tượng
trưng cho thành phần dân nghèo của giai cấp cùng đinh trong xã hội. Xa xa là những
cụm khoai môn mọc lưa thưa. Thật là một cảnh quang ban đêm của miền Nam hiền hoà
và đầm ấm.
Hình ảnh thiêng liêng
của đêm thánh cũng được hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, là một người ngoại đạo, vẽ lại
trong tác phẩm “Giáng Sinh”. Hiện hoạ phẩm này được lưu giữ tại Dòng Mai Khôi
đường Tú Xương, Sài Gòn. Ban đầu bức tranh được đặt tại một nhà thờ của dòng Đa
Minh ở Hà Nội. Năm 1954, nhà thờ chuyển vào Sài Gòn. Cùng thời kỳ đó, bức tranh
của Nguyễn Gia Trí được mang qua Pháp, đến năm 1960 mới trở về với nhà thờ Mai
Khôi. Lúc ở Sài Gòn, chính Nguyễn Gia Trí có qua sửa sang lại bức tranh này. Đây
là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Gia Trí, và có thể xem là
tuyệt tác hàng đầu của nghệ thuật Công giáo Việt Nam.
Nguyễn Gia Trí quê ở
xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Tây. Năm 1936, ông tốt nghiệp trường Cao Đẳng
Mỹ thuật Đông Dương.Từ năm 1954, ông di cư vào Nam. Ông là người đi đầu trong
việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm nghệ
thuật và từ đó ông đã được mệnh danh là "người cha đẻ những bức tranh sơn
mài tân thời của Việt Nam". Ông Nguyễn Gia Trí là một trong những họa sĩ nổi
tiếng đi đầu trong việc tạo ra một khuynh hướng nghệ thuật mới cho Việt Nam, với
những đường nét vẽ thanh lịch và những tư tưởng mới về nghệ thuật sơn mài. Ông
phối hợp lối in khắc với những phương thức sơn mài mới, đồng thời áp dụng các
nguyên tắc cấu trúc tranh vẽ phương Tây, để tạo những bức họa hiện đại mang đầy
tính chất dân tộc. Những tác phẩm của ông có thể tìm thấy trong Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố HCM
"Giáng Sinh"- Nguyễn Gia Trí, sơn mài,
1,3m X 2,37m (1941)
Giống các bức tranh thờ
bộ ba khác của Tây Phương, bức “Giáng Sinh” gồm ba bức sơn mài ghép lại. Hàng
chữ La Tinh“Hodie pax vera de coelo descendit” trên đầu bức giữa nổi bật lên, tạo
cho bức tranh một vẻ vừa Âu vừa Á. Nó có nghĩa là “Hôm nay hòa bình chân thật
đã từ trời ngự xuống”. Hoạ phẩm có màu sắc rất đẹp nhưng thật tiếc, khi chụp hình,
các màu vàng, son bị mờ đi. Hiện tranh đang trong tình trạng bị hư hỏng.
Bên góc
trái bức tranh, ba thiên thần có cánh, mặc áo dài cầm sáo, đàn, đạp mây mà tớ,i
tạo cho bức tranh một vẻ sinh động, nhưng lại có vẻ phiêu hốt như các tiên cô
trong tranh cổ xưa phương Đông. Mây được vẽ theo motif mây của tranh Tàu, Nhật
xưa. Tại trung tâm bức tranh, Thánh Cha Guise và Đức Mẹ Maria phục sức áo dài, đội
khăn, quỳ lạy trông hệt như những tín đồ công giáo người Bắc nghèo khổ chúng ta
thường thấy trong các thánh đường Công Giáo ngoài Bắc. Bên cạnh đó là một con
trâu trắng. Tôi thắc mắc, tại sao lại là trâu trắng mà không phải trâu đen?.
Chắc
có lẽ theo phong tục, lệ làng ngày xưa, trâu trắng thường được dùng để hiến tế
trong các dịp cúng lễ thiêng liêng nên họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã vẽ trâu trắng
thay vì trâu đen thường thấy. Hình ảnh ba người cùng khổ xuất hiện bên tay phải
của bức thứ ba là một hình ảnh khác biệt trong bức hoạ đêm Giáng Sinh này của ông.
Thay vì ba vua, thì ba nhân vật tượng trưng cho ba trạng thái tinh thần của chúng
sinh được ông thế vào như một sáng tạo đầy ý nghĩa. Người đội khăn đang quỳ chắp
tay hướng về Chúa Hài Đồng là người có niềm tin tôn giáo. Người nhìn thẳng ra
ngoài với khuôn mặt vô cảm chính là kẻ bàng quang và người đang gối đầu ngủ say
tức là người đang chìm đắm trong u mê chưa tỉnh. Tất cả tượng trưng cho nếp sống
tinh thần của nhân loại.
Họa sĩ Tú Duyên tên thật là Nguyễn Văn Duyến, sinh năm 1915 tại làng cổ Bát Tràng, Bắc Ninh. Ông từng theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (năm 1935). Năm 1939 gia đình ông chuyển vào Sài Gòn sinh sống. HS Tú Duyên cộng tác minh họa cho nhiều báo Sài Gòn. Năm 1942 ông khai sinh kỹ thuật Thủ Ấn Họa độc đáo có một không hai của Việt Nam (Thủ Ấn Họa của HS Tú Duyên là dùng ngón tay, lòng bàn tay, cạnh tay… vẽ trực tiếp trên lụa). Sáng tác của HS Tú Duyên phần lớn là tranh mộc bản trên lụa, nội dung chủ yếu dựa trên cảm hứng tranh Đông Hồ, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, và kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam. Ông từng giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Gia Định. Hiện Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM đang giữ bộ sưu tập 9 tranh thủ ấn họa trên lụa và 52 bản khắc gỗ của HS Tú Duyên.
Họa sĩ Tú Duyên tên thật là Nguyễn Văn Duyến, sinh năm 1915 tại làng cổ Bát Tràng, Bắc Ninh. Ông từng theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (năm 1935). Năm 1939 gia đình ông chuyển vào Sài Gòn sinh sống. HS Tú Duyên cộng tác minh họa cho nhiều báo Sài Gòn. Năm 1942 ông khai sinh kỹ thuật Thủ Ấn Họa độc đáo có một không hai của Việt Nam (Thủ Ấn Họa của HS Tú Duyên là dùng ngón tay, lòng bàn tay, cạnh tay… vẽ trực tiếp trên lụa). Sáng tác của HS Tú Duyên phần lớn là tranh mộc bản trên lụa, nội dung chủ yếu dựa trên cảm hứng tranh Đông Hồ, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, và kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam. Ông từng giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Gia Định. Hiện Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM đang giữ bộ sưu tập 9 tranh thủ ấn họa trên lụa và 52 bản khắc gỗ của HS Tú Duyên.
Đêm Thánh vô cùng-Tú Duyên,
tranh lụa (1968)
Khác với bố cục của các
bức tranh tả cảnh đêm Giáng Sinh khác, trong khung hình chữ nhật của bức tranh
này, các nhân vật được dàn trải ra dầy đặc tựa như một bức tranh Đông Hồ “Đám
cưới chuột” ngày xưa. Đức mẹ Maria mang dáng vẻ và trang phục áo tứ thân, vấn tóc,
choàng khăn của người phụ nữ miền Bắc. Đức cha Guise lại giống một ông lão, tóc
búi, râu chòm, dài lê thê.
Các hình ảnh thiên thần, người dân cùng mục đồng thổi
sáo bên trâu bò đã lộ ra vẻ mộc mạc chân chất của đồng quê miền Bắc. Kể cả 3
vua với hào quang cũng là 3 ông lão với áo dài khăn đống, dâng nến, dâng quà.
Xa xa là nhánh tre trúc, một thứ cây mọc khắp nơi ở đất nước Việt Nam. Theo tôi, “Đêm Thánh vô cùng” của Tú Duyên có một nét tưng
bừng rực rỡ của đêm nhộn nhịp lễ hội hơn là một đêm an lành, sâu thẳm.
Sau năm 1975, một hoạ
sĩ có chân trong nhóm Hội Hoạ Sĩ Trẻ (1966) của miền Nam là họa sĩ Nguyễn Phước
đã có vài hoạ phẩm công giáo được cố linh mục Đa Minh Trần Thái Hiệp sưu tập.
Hoạ sĩ Nguyễn Phước
sinh năm 1943 tại Sài Gòn. Ông tốt nghiệp Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định và Quốc
Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật, Sài Gòn. Ông đã có nhiều buổi triển lãm trong nước cũng
như quốc tế.
Hiển linh-Nguyễn Phước, sơn
dầu(1988)
Màu sắc bức tranh nhuốm
vẻ hoàng hôn của một buổi chiều sắp bước vào đêm, tiết lộ thời gian của bức
tranh. Có lẽ vì yêu màu mạnh của lửa, mặt trời, nên sắc đỏ dù có lợt đi, bức
“Hiển Linh” của ông vẫn bàng bạc những mảng màu nâu, cam, đỏ huyền bí của một ráng
chiều sắp tắt. Màu áo dài xanh của Đức Mẹ Maria dịu dàng dưới vòng hào quang nâu
nhạt trên vầng tóc búi đen, làm nổi bật điểm trung tâm của bức họa.
Chiếc lu nước
cạnh chõng tre bên căn chòi tranh cùng em bé mục đồng thổi sáo đã cân bằng vòng
xoay bố cục các nhân vật của bức tranh. Ba vua trang phục rất đẹp dâng kính trà
và châu báu. Xa xa hình bóng đen nhạt của hai bà cháu và con trâu trong tư thế đang
đi tới làm bức tranh sống động hẳn lên. Bối cảnh bụi khoai, bụi chuối, hoa, lá,
đây đó mang về cho hoạ phẩm một sự sống của thiên nhiên. Tôi thích nhất màu sắc
hài hoà, dịu nhẹ, êm ả của bức tranh chiều này.
Chúng ta đã thấy được
những nét đẹp của các bức tranh Giáng Sinh thuần văn hoá Á Đông đặc trưng của
miền Nam Việt Nam ngày trước. Những hoạ phẩm này là các tác phẩm chọn lọc và tiêu
biểu cho một phần diện mạo văn hoá đa tôn giáo của mỹ thuật miền Nam Việt Nam đang
bị bỏ quên ở trong nước. Tất cả đều nằm trong bộ sưu tập nghệ thuật của cố linh
mục Đa Minh Trần Thái Hiệp mà ít ai biết đến. Với một lòng yêu mê nghệ thuật, tôi
mong mỏi sự giới thiệu vài bức tranh tiêu biểu quí hiếm của nghệ thuật Công Giáo
miền Nam đến các bạn đọc như một món quà Giáng Sinh đặc biệt năm nay. Chúc các
bạn một Giáng Sinh an lành, đầy ơn phước.
(trích một phần trong
bài Tranh Giáng Sinh của miền Nam Việt Nam của Trịnh Thanh Thủy trong Thế giới
nghệ sĩ số 45)
Trịnh Thanh Thủy
Tài liệu tham khảo
Wikipedia cho phần tiểu
sử các hoạ sĩ
Về bộ sưu tập nghệ thuật
của cố linh mục Đa Minh Trần Thái Hiệp của Nguyên Hưng
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.