Sau
năm 1975, người Việt Nam
bỏ nước ra đi tị nạn đã bị Cộng Sản gọi bằng những danh từ khác nhau. Những
danh từ nầy mang những hậu ý chính trị gian xảo, do đó việc tìm hiểu ý nghĩa
chính xác những danh từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong
từng trường hợp.
Người
tị nạn
Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam, Cộng Sản đã gọi tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vựơt biển, vượt biên để xin tị nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ thô tục để điểm mặt người tị nạn.
Trước tiên, trong một hội nghị với các cán bộ tại Hà nội năm 1975, Trần Phương, Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Xã hội đã ví von một cách tục tĩu dân miền Nam là những con điếm cho Mỹ làm tình để đổi lấy viện trợ. Cùng trong tư tưởng dâm ô ấy, Lê Duẩn mạt sát những người di tản là một bọn ma-cô, đĩ điếm, Phạm văn Đồng chửi người ra đi là bọn phản quốc, và các nhà báo nhà văn cộng sản, kể cả bọn cộng sản 30 cũng chửi hùa theo là những đồ rác rưởi trôi dạt khắp năm châu bốn bể. cặn bả xã hội, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sửa cặn » .
Nguyễn Trọng Nhân, nguyên
Bộ trưởng Y tế còn hằn học hơn khi tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm
1993 tại Amsterdam
: Những người di tản đáng bị chặt đầu.
Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên hình là bọn gian manh. Năm 1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tị nạn gởi về, bọn đĩ điếm được cộng sản « nâng cấp» lên là Việt kiều, và ân tình hơn, Đỗ Mười tuyên bốViệt Kiều lànhững khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc.
Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rõ thâm ý của Cộng Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác được dùng làm tỉnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống ở ngoài lãnh thổ mà người đó đã được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước».
Về điểm nầy, chúng ta thấy rõ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008 , «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của chính phủ VN tại nước ngoài để đăng ký xin giữ quốc tịch, nếu không, sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch»
Sau 5 năm, chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái với dự tính vì số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019.
Ngôn từ Cộng Sản thật lươn lẹo, lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019, người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn còn quốc tịch VN, vẫn bị chi phối bởi Luật quốc tịch VN giải thích «rộng rãi» theo luật rừng.
Chính bà Nguyễn Thị
Bình, người lãnh tụ của Phong Trào Giải Phóng Miền Nam
còn sống sót, đã ví von : Việt Nam có một rừng luật và áp
dụng luật rừng.
Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn còn khư khư giữ quan niệm cha chú nầy với người Việt tị nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước ngoài đã nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết, ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt 20 năm trước như sau : «Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền nhân ra đi đa số là vì mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản ... Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai. (Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014).
Việt Kiều và Nghị Quyết 36
Đa số những Việt Kiều nầy là những sinh viên xuất ngoại du học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc gia Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước vì sợ đi quân dịch, nên tìm cách ở lại tại các quốc gia đã du học một cách bất hợp pháp. Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong trào sinh viên phản chiến ở Pháp,
Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già, nguyên gốc là HO, có học và vô học, vì không hội nhập được vào xã hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xã hội của quốc gia định cư, một số khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc, làm ăn buôn bán. Để đạt được ý định, họ lập công với cộng sản bằng những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá. Nghị Quyết 36 nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy.
- Giúp người tị nạn trong việc sinh sống
- Giúp người tị nạn đoàn kết lẫn nhau
-Thu góp tiền bạc và chất xám
- Biện pháp đối với các thành phần chống lại chính phủ và Đảng ở hải ngoại
- Tổ chức văn hóa vận và tình báo ở hải ngoại
Nhận
định từng điểm, NQ 36 mang bản chất gian xảo, trịch thượng . Làm sao CS
có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong cuộc sinh sống trong khi
họ đã đẩy đa số người dân trong nước đến chổ bần cùng và mất cả đạo lý, và càng
tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của
họ đi qua, làm xấu xa dân tộc. Tại Nhật, Mã Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo
bảng hiệu : Cảnh cáo Ăn cắp vặt, No dogs, no Vietnamese.
Họ nói giúp người tị nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ, đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản thì quá rõ, từ việc gởi tiền đến Việt kiều du lịch mang về nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản 12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại .
Một số tác hại của NQ 36 đã thấy rõ trong một số công tác chiến lược như sau :
Trường
dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là lò huấn luyện, tuyên
truyền
Tại
những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay hợp tác với các
đoàn thể, tư nhân mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách báo từ VN sang, hay
soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng sản. Những buổi sinh hoạt tập
thể là những cơ hội thuận lợi để cán bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn
những măng non theo tư tưởng cộng sản. Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách
văn hóa vận nầy tạo một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công
cuộc chống cộng.
Xâm
nhập các cơ quan truyền thông
Cộng
Sản đã tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua chuộc các cơ sở
truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản linh tinh, nhưng thỉnh
thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận động chính trị chiến lược có lợi cho
cộng sản. Trong bản tổng kết Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ haitừ
ngày 27-29 tháng 09 năm 2012 ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh
Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã nói rõ chương trình hành
động : «Tăng cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho
các chương trình dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo
chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triễn lãm tranh
ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt
các nhóm trong cộng đồng người Việt hải ngoại…»
Khuynh
đảo, lừa gạt, xảo trá là sở trường của Cộng Sản. Chúng áp dụng kỹ chiến thuật
tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin Tuyên truyển của Đức Quốc
Xã) : Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc không đúng sự thật, ban đầu
người ta không tin, lần lần người ta bán tin bán nghi sau cùng người ta tin là
sự thật. Internet và báo chí là những phương tiện hữu hiệu dể
chúng bôi lọ những người quốc gia tranh đấu chân chính, làm yếu đi lực
lượng chống cộng. để từ đó chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ
chức tranh đấu chính trị đã bị chẻ làm đôi, làm ba và khi các cộng đồng
hay tổ chức này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ thì chúng dùng tiền để mua
chuộc đám Việt kiều - Việt gian nhảy ra làm bình phong cho chúng hoạt động. Mặc
dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng vẫn không thành công lắm
trong công tác vận động quần chúng ở Bắc Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu.
Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau : dịu ngọt và bạo lực.
Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau : dịu ngọt và bạo lực.
Chánh sách vừa chiêu dụ vừa khủng bố của Cộng Sản đã có tác dụng phần nào trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông Âu, nơi có đông đảo người lao động xuát khẩu, di dân bất hợp pháp và du sinh. Trong thập niên qua, các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng sản đã nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36 : « … Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động thì chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế lực thù địch…». Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là : 4 tại các quốc gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar, Angola), 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – ( chú thích : tại Thụy Sĩ còn có một cộng đồng chống Cộng của người Việt tị nạn). Các chủ tịch các cộng đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nhìn, việc điều khiển Cộng Đồng do sứ quán hay tòa lãnh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm 2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50).
Ngày 18 tháng 8 , 2014, Trung ương đảng đã tổ chức một cuộc «mạn đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) qui tụ những nhân vật cao cấp của Bộ Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng »
Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện
Người Việt ở hải ngoại
Bảng 1- Tổng số người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại
Quốc gia
|
Số người
|
Nguồn
|
Hoa Kỳ
|
1 548 450
|
US Census 2010
|
Úc
|
233 390
|
Census Explorer 2011
|
|
220 420
|
|
Pháp
|
200 000
|
Các nhà biên khảo ở Pháp
|
Đức
|
125 000
|
Wikipedia và một số nguồn liệu
|
Anh
|
65 000
|
|
Tây/Bắc Âu
|
100 000
|
Các nguồn từ địa phương
|
Tổng cộng
|
2 492 260
|
|
Nguồn: Lâm Vĩnh
Bình. Giá Tự Do
Bảng 2- Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư
hợp pháp và bất hợp pháp tại hải ngoại (Việt Kiều)
Đông Âu
|
Số người
|
|
Á Châu
|
Số người
|
Nga
|
46 000
|
|
Đài Loan
|
180 000
|
Tiệp Khắc
|
50 000
|
|
Hàn Quốc
|
120 000
|
Ba Lan
|
20 000
|
|
Mã Lai
|
85 000
|
|
10 000
|
|
Trung Quốc
|
30 000
|
|
5 000
|
|
Nhựt
|
38 000
|
Áo
|
5 000
|
|
Cambốt
|
600 000
|
|
4 000
|
|
Thái Lan
|
100 000
|
Azerbeijan
|
10 000
|
|
|
|
Trung Đông
|
10 000
|
|
Lào
|
20 000
|
|
40 000
|
|
|
27 000
|
Cộng
|
200 000
|
|
Cộng
|
1 200 000
|
Tổng cộng : 1 400 000
|
Nguồn :
- Người Việt ờ nước ngoài www.vietkieu.info;
- Wikipedia,
- Migration Policy Institute.
- World Facts Book
- Migration Policy Institute.
- World Facts Book
Chú
thích :
Bảng
thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ là những con số
ước lượng gồm có :
- 700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch. Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. TheoWikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodia trình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc online).
Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động : Cambot : 37 000, Lào : 11 000, Thái Lan : 6000.
- 700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau :
- một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy
- một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.
- 700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch. Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. TheoWikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodia trình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc online).
Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động : Cambot : 37 000, Lào : 11 000, Thái Lan : 6000.
- 700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau :
- một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy
- một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.
Như
vậy tổng số người Việt ở hải ngoại là :
- Người tị nạn Cộng sản : 2.500 000 người (số tròn) Bảng 1
- Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp : 1 400 000 người Bảng 2
- Người tị nạn Cộng sản : 2.500 000 người (số tròn) Bảng 1
- Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp : 1 400 000 người Bảng 2
Tổng
cộng số người Việt ở hải ngoại : 3 900 000 người.
Một
cách dễ nhớ : 4 triệu người.
Nguồn : Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do
Về
tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết, ngay cả những
nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch đại con số, bởi lẽ thay
vì sử dụng thống kê chính thức của các quốc gia sở tại, họ lại sử dụng những
thống kê của Cục Người Việt nước ngoài của Cộng Sản mà bản chất
là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể như luận án tiến sĩ : Mobiliser les
Vietnamiens de l’étranger : enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme
transnational của Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du
Sud-Est contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở hải
ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu (thay vì 1.5
triệu) và ở Canada là 250 000 (thay vì 220 000). «Le RSVN
estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à l’étranger. La
communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la plus nombreuse avec 2.2M
de personnes. Environ 250 000 Viet Kieu vivent au Canada ,
120 000 en Allemagne et 60 000 en Russie…(p. 13).
Kết luận
Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tị nạn về nước ào ạt vì đủ thứ lý do, thăm gia đình, du lịch, du hí… Thật là khó hiểu khi nhiều người đã ra đi tìm cái sống trong cái chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay bị lao tù, và trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu, họ lại quay trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ công an, cán bộ phường xã, những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang gì ? Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi người mang về VN để chi tiêu trung bình khoảng 4000 mỹ kim, như vậy Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai tháng. Ngoài ra, việc gởi tiền về VN triền miên từ 40 năm nay để nói là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính số kiều hối khổng lồ nầy đã nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy trì một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác gì những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng ?
Theo Viện Nghiên cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (Central Institute for Economic Management CIEM), « tính từ năm 1991 đến 2013, lượng kiều hối gởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất (57% trong tổng số kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng 9%),
Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu não của cộng sản đã cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay nói chung những Việt kiều thân Cộng đã gởi tiền về nước để nuôi chế độ mà chính đa số là người tị nạn. Chỉ tại 5 quốc gia có đông đảo người tị nạn, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã đóng góp hàng năm cho cộng sản VN 84% ngoại tệ.
Có
gì phi lý hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Tây Đức là thành trì
chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là đại ngân hàng tài trợ cho Việt
Cộng. Giải quyết cái phi lý nầy phải là chuyện số một phải làm, tuy đã muộn
màng lắm rồi, trước khi nói đến những chuyện tranh đấu khác.
Lâm Văn Bé
Lâm Văn Bé
*****
Jun
26, 2013
Với
cái nhãn quan này, tôi đã nhìn thấy, càng ngày có càng nhiều, người chung quanh
trong số đông “đồng bào người Việt tị nạn cộng sản,” dưới nhiều hình thức và
cường độ khác nhau, mắc phải bệnh tâm lý thời đại mà các khoa học gia gọi là
“Stockholm Syndrome” (tạm dịch là “Bệnh Stockholm”). TVG ..... Tôi nhìn qua các
thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người mà
tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam !
Nov
12, 2014
Làn
sóng tị nạn thứ ba vào Hoa Kỳ trong suốt những năm 1980 và 1990; không giống
như hai đợt sóng tị nạn trước, nhóm thứ ba có ít người tị nạn hơn, và gồm hàng
ngàn người con lai Việt Nam (con của quân nhân Mỹ với những bà mẹ Việt Nam)
cùng các tù nhân chính trị. ..... Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới tổng số
kiều hối gửi về Việt Nam qua đường chính thức tương đương 11 tỷ USD trong năm
2013, chiếm khoảng 6,4% tổng sản lượng (GDP) Việt Nam.
Mar
11, 2015
Thứ
hai, tôi thành thật xin lỗi gần hai triệu người tị nạn miền Nam Việt Nam đã
vượt biển, vượt biên đi tìm tự do(1), vì những hành vi khi tôi sinh hoạt và
đóng góp tích cực cho Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada (HVKYNTC), ...
Mar
10, 2014
Vốn
là tị nạn chính trị chế độ cộng sản, người Việt ở hải ngoại luôn luôn tìm mọi
cách để biểu lộ cho người dân trong nước, dân bản xứ, cũng như cộng đồng thế
giới biết họ không chấp nhận những ngưới cầm quyền ở Hà Nội là đại ... Thật ra,
“Việt kiều yêu nước” chỉ là “người Việt thân cộng ở hải ngoại”. image. Người Mỹ
gốc Việt (VNCH). Ngày nay, Hà Nội lại muốn tiếp tục “mập mờ đánh lận con đen”
muốn lợi dụng nguồn tài nguyên (như ngoại tệ, và kiến thức kỹ ...
Jul
15, 2014
Kiều
hối là ngoại tệ chuyển về Việt Nam
do những người sinh sống ở nước ngoài như những người tị nạn Cộng Sản hay những
người làm việc ở nước ngoài như những công nhân xuất khẩu lao động. .... Một
cuộc nghiên cứu khác của Vân Phượng Hoàng và Elisabetta Magnani thuộc
University of New South Wales xuất bản vào 2012 cũng có một kết luận tương tự
rằng số lượng kiều hối từ nước ngoài do Việt kiều gửi về không có ảnh hưởng đến
việc phát triển ...
Jun
20, 2014
Mỗi
năm, ngày 30 tháng tư gợi lại vết thương đau buồn và mất mát của người Việt hải
ngoại, người Việt mất nước, người Việt tỵ nạn, người Việt chạy trốn chế độ độc
tài Cộng Sản. 2_ Chiến dịch “Gió lốc” (Operation Frequent ...
Jul
15, 2014
Ở
các thành phố lớn tại Úc, thường có hai cuộc biểu tình vào hai ngày khác nhau:
Một, của cộng đồng người tị nạn với cờ vàng ba sọc đỏ và một, của các sinh viên
sang Úc du học, trong đó, có không ít người đã học xong và ở lại làm việc tại
Úc, với cờ đỏ sao .... Trong số những người đứng tên có một người đã được báo
trong nước đưa tin là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam và là
Chủ tịch Hội Việt kiều tại thành phố Melbourne và Australia.
Mar
09, 2014
Theo
nguyên tắc này, khi chúng ta đang xin hay còn mang quy chế tị nạn mà đặt chân
về Việt Nam, dù chỉ để thăm gia đình, thì xem như tự đặt mình trở lại dưới sự
bảo vệ của chế độ cầm quyền và sẽ tự động mất tư cách tị nạn. Pháp áp .... Trí
nhớ của Việt Kiều. image. Bây giờ, sau nhiều năm định cư, tình hình tài chánh
đã cho phép người ta đi du lịch, hay trở về Việt Nam thăm quê hương, quên hẳn thời
gian trước đây, còn gian nan khi mới mất nước, tháng tư .
Jul
30, 2013
Bây
giờ, người ta không muốn nhớ tới thời gian còn ở trong trại tỵ nạn, áo thung,
quần xà lỏn, sắp hàng nhận từng thùng mì, hay một vài nhu yếu phẩm mà các cơ
quan của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc phân phối cho các thuyền nhân ở Mã Lai
hay .... Hỡi những ai còn cho rằng mình là con rồng, cháu tiên, còn coi mình là
người Việt Nam
, chúng ta chỉ còn một con đường để cứu nước, là tiêu diệt cái “Đảng và Nhà
Nuớc” đó đi. ... Việt Kiều làm việc từ thiện ở VN.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.