Hiệp
Chủng Quốc Mỹ là đất hứa đối với nhiều triệu con người trên khắp thế giới khi
họ bắt buộc phải rời bỏ quê hương chôn nhau cắt rốn của họ. Họ ra đi để tránh
sự đàn áp khủng bố chính trị, giới hạn tôn giáo, tước bỏ quyền tự do căn bản
của con người, áp đặt bởi các chế độ độc tài, độc đảng toàn trị.
Từ năm 1975, nước Mỹ đã mở rộng cửa đón tiếp cả triệu người tỵ nạn chính trị từ miền Nam Việt
Trong
số trên một triệu người Việt tại Mỹ, người cao tuổi chiếm một tỷ lệ khá cao. Họ
đã cố hòa nhập với xã hội mới và cũng có nhiều vấn đề như những người già khác
ở đây. Nhưng người cao tuổi mình đến Hoa kỳ từ một nền văn hóa, một nếp sống
khác biệt, trong những hoàn cảnh bất lợi nên việc thích nghi có phần khó khăn
hơn.
I-
Các hoàn cảnh đưa đến việc Người Việt Nam di tản tới Hoa Kỳ
Theo kết quả cuộc thống kê dân số thực hiện năm 2007, số người Việt Nam hiện có trên đất Mỹ là 1,642,950 người, đứng hàng thứ ba sau người Trung Hoa, Phi Luật Tân. Đây là một con số nhẩy vọt khá nhanh. Quá phân nửa số trên một triệu người Việt tập trung ở các tiểu bang
Người
Việt tới Mỹ theo nhiều đợt khác nhau
Khi miền Nam Việt Nam sắp thất thủ thì một số người có liên hệ với chính quyền Hoa Kỳ được ưu tiên di tản, cộng thêm quân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa có quen biết với tòa Đại sứ hoặc Bộ Tư Lệnh quân đội Mỹ tại Sài Gòn. Họ ra đi bằng máy bay. Sau đó một số khác chạy thoát bằng đường biển và được hạm đội đồng minh đón vớt ngoài hải phận Việt
Từ
1978 đến 1982, tại Việt Nam có
phong trào chống kiều dân người Trung Hoa nên một đợt di tản khác lại xẩy ra
gồm cả người Việt lẫn người Hoa. Họ ra đi bằng những chiếc thuyền lớn nhỏ đủ
loại và được mệnh danh là “Boat People”. Người ta tìm cách vượt biên, vượt biển
ra đi, tới các quốc gia lân cận Việt Nam như Phi Luật Tân, Mã Lai, Hồng Kông,
Thái Lan, Tân Gia Ba.
Họ
đi tìm sự sống trong cái chết, chỉ mong tới được bất cứ mảnh đất nào có tự do,
dân chủ. Nhiều người, có khi cả gia đình, thiệt mạng trên biển cả vì bão tố,
làm mồi cho cá mập, hoặc bị hải tặc cướp hiếp ngoài khơi.
Tới
đất liền, những người sống sót được đưa vào trong các trại tị nạn, sống trong
lo âu, thiếu thốn chờ đợi ngày được nhận vào các quốc gia đệ tam.
Cảnh vượt biển với nhiều chết chóc thảm thương đã khiến quốc tế lưu tâm tìm
cách giải quyết. Cho nên sau nhiều điều đình, thảo luận, những chương trình
nhân đạo ra đi có trật tự được thực hiện. Người Việt tới Mỹ bằng diện đoàn tụ
gia đình, diện con lai mang dòng máu người Mỹ và diện tù nhân chính trị.
Diện
cuối này còn được gọi là diện HO. Năm 1988, đích thân Tổng Thống Ronald Reagan
đã ký ban hành Đạo luật giúp đỡ những cựu tù nhân cải tạo từ ba năm trở lên tới
định cư tại Mỹ.
Họ
gồm quân dân chính các cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã bị chính quyền Cộng
sản tập trung, đưa đi cải tạo. Người dăm ba tháng, người vài ba năm, hầu hết
mươi mười lăm năm, họ bị cô lập trong các trại tập trung rải rác khắp nước
Việt Nam .
Các phương thức kiềm chế, hành xác khắc nghiệt được mang ra áp dụng đối với tù
nhân. Họ phải lao động chân tay ban ngày để tự sinh tự tồn, học tập về lý
thuyết Mác, Lê ban đêm để “gột bỏ tàn tích đế quốc”. Nhiều người bỏ xác trong
tù. Đa số có sức khỏe kém cả về thể xác lẫn tâm hồn khi được thả về với gia
đình.
Về
tới nhà, họ tiếp tục bị chính quyền quản thúc, theo dõi từng hành động. Họ
không thể kiếm được việc làm vì là ngụy quân ngụy quyền, thẻ căn cước được đóng
con dấu oan nghiệt phân loại đỏ chói. Con cái của họ không được học cao vì
thuộc thành phần cha mẹ có “lý lịch xấu”.
Họ
chịu nhiều cay đắng vì đã bị người bạn đồng minh bỏ rơi một thành trì bảo vệ tự
do trước đây, rồi lại bị đối xử tàn tệ bởi chế độc độc tài, độc đảng. Họ cũng
buồn lòng với những đồng ngũ, những cấp lãnh đạo đã bỏ chạy trước khi cuộc
chiến chấm dứt. Một số khi trở về nhà, thì người bạn tao khang đã ôm thuyền bến
khác hoặc đã rời khỏi quê hương, tìm đời sống mới.
Nghe
nói hậu quả của thảm cảnh hành hạ tù đầy này đã được một số lãnh đạo đảng
cộng sản cho là quá đáng, không nhân đạo.
II- Những khó khăn khi hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ
1- Khó khăn về ngôn ngữ, việc làm
Ngôn ngữ xứ người là bước cản trở lớn nhất cho người tị nạn, từ kiếm việc tới mọi giao dịch. Đã có nhiều giai thoại tức cười cũng như đáng buồn xẩy ra vì sự không diễn tả được ý nghĩ bằng ngôn ngữ địa phương mới tới.
Vốn được đào tạo trong nền văn hóa Pháp rồi chuyển sang chương trình tiếng
Việt, nên nhiều người chỉ có một vốn liếng rất giới hạn về Anh Ngữ. Họ gặp
nhiều khó khăn trong việc đối thoại với người bảo trợ, với hàng xóm mới, khi đi
tìm xin việc cũng như giao tế hàng ngày. Chỉ vì không biết tiếng Anh. Mà Anh
ngữ là chiếc chìa khóa vạn năng giúp di dân hội nhập vào xã hội Mỹ nhanh chóng
hơn.
Ngoài
vấn đề ngôn ngữ, đa số người tị nạn đều không có một nghề nào khả dĩ có thể
dùng ngay trong xã hội mới, ngoài việc làm lao động chân tay tại các nông trại,
tiệm ăn, tiệm tạp hóa... Một số theo học các lớp Anh ngữ căn bản rồi học những
nghề chỉ cần huấn luyện ngắn hạn. Mục đích của họ là làm bất cứ việc gì để có
thể nuôi sống gia đình, khỏi trở thành cây chùm gửi trên đất Mỹ.
Trong
gia đình tỵ nạn Việt Nam ,
mọi người đều làm việc. Lợi tức thu hoạch được góp chung với nhau rồi chi tiêu
dè sẻn, để dành. Cha mẹ nhiều khi làm hai, ba công việc, hết ngày lại đêm. Con
cái đi học về là đi rửa chén bát, làm bồi bàn tại các tiệm ăn. Với sự lao động
tối đa, chi tiêu tối thiểu, chỉ dăm năm sau là họ đã dành dụm được một số vốn
đủ để mua nhà hoặc mở cơ sở thương mại. Họ đã nghiêm chỉnh áp dụng câu ngạn ngữ
“khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” vào đời sống thực tiễn ở miền đất mà khi đó họ
coi chỉ là tạm cư. Họ vẫn nghĩ đến một ngày có thể trở về quê hương trong hoàn
cảnh thuận tiện, tự do, dân chủ.
2-
Khó khăn trong đời sống mới:
Vào một xã hội hoàn toàn xa lạ, từ cách ăn uống, khí hậu, địa dư, đối xử, giao tế, sức khỏe, dịch vụ y tế, cho nên người tỵ nạn hoàn toàn lạc lõng. Chính quyền Mỹ, các cơ quan thiện nguyện đã phải kiên nhẫn lắm mới giúp họ làm quen với nếp sống này. Họ cố gắng hội nhập, đôi khi hầu như phải cắn răng nhẫn nhục, vì đâu đây vẫn phảng phất một phân biệt, một cái nhìn khác lạ tới mầu da của con người. Nhiều di dân đến trước đã có cảm nghĩ là Tượng Thần Tự Do quay mặt về Âu châu và xoay lưng về phía Á Châu, ám chỉ sự kỳ thị với người Mỹ gốc Á. Mỹ Trắng thì gọi là dân Mỹ, Mỹ Phi Châu gọi là Mỹ đen, còn các sắc dân khác thì là “công dân hạng hai”.
Vào một xã hội hoàn toàn xa lạ, từ cách ăn uống, khí hậu, địa dư, đối xử, giao tế, sức khỏe, dịch vụ y tế, cho nên người tỵ nạn hoàn toàn lạc lõng. Chính quyền Mỹ, các cơ quan thiện nguyện đã phải kiên nhẫn lắm mới giúp họ làm quen với nếp sống này. Họ cố gắng hội nhập, đôi khi hầu như phải cắn răng nhẫn nhục, vì đâu đây vẫn phảng phất một phân biệt, một cái nhìn khác lạ tới mầu da của con người. Nhiều di dân đến trước đã có cảm nghĩ là Tượng Thần Tự Do quay mặt về Âu châu và xoay lưng về phía Á Châu, ám chỉ sự kỳ thị với người Mỹ gốc Á. Mỹ Trắng thì gọi là dân Mỹ, Mỹ Phi Châu gọi là Mỹ đen, còn các sắc dân khác thì là “công dân hạng hai”.
3- Khó khăn trong nếp sống gia đình
Đa số gia đình Việt nam vẫn còn giữ được truyền thống tốt đẹp cũ. Tuy nhiên vài vấn vấn đề đã được nêu ra ở một số không nhỏ gia đình.
Khi hội nhập vào nước Mỹ, người Việt bị đặt vào môi trường trong đó họ phải đối diện với hai nền văn hóa khác biệt: Hoa kỳ với khuynh hướng tự do, cởi mở giữa con cái với cha mẹ; còn truyền thống Việt Nam thì dành cho cha mẹ quyền uy tối thượng, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.
Trẻ
con dù sinh ra ở Việt Nam ,
nhưng lớn lên ở Mỹ, chơi với bạn Mỹ, giáo dục theo lối Mỹ, yêu thích tự do nên
đã mau chóng sống với nếp sống mới. Còn một số các bậc làm cha mẹ thì vẫn giữ
quan niệm xưa, luôn luôn cho mình là đúng, rồi ra lệnh và sắp đặt. Cho nên sự
mâu thuẫn giữa hai thế hệ là điều không thể nào tránh được, nếu không có sự
tương nhượng, thông cảm.
Đã
có trường hợp con cái kêu cảnh sát can thiệp vì cho là bị cha mẹ lạm dụng, hành
hạ; những cảnh con cái bỏ cha mẹ vào nhà người già. Lại cũng có trường hợp, cha
mẹ hy sinh vốn liếng, tài sản để các con vượt biên, đến các nước tự do. Sau vài
năm, con cái làm ăn khá vững vàng bèn bảo lãnh cha mẹ già sang với mục đích
phụng dưỡng, đền ơn sinh thành, dưỡng dục. Nhưng các cụ ở được một thời gian
ngắn, niềm vui chưa trọn vẹn thì chuyện buồn đã đến nên muốn bỏ về. Lý do hoặc
vì các con thay lòng đổi dạ, hoặc các cụ nhớ nhà, hoặc nghịch cảnh dâu, rể
không sống chung với nhau được. Rồi lại những hôn nhân dị chủng, ly hôn ly dị
của các con làm các cụ đau lòng.
Bình
tâm mà nói, nếu nhiều người già coi đất Mỹ như đất tạm dụng, thì với giới trẻ
có ý chí vươn lên, có nghị lực thắng vượt khó khăn và quyết tâm đạt đến mục
tiêu đã đặt ra, nước Mỹ là mảnh đất tốt lành đã mang đến cho họ những cơ hội để
phát triển khả năng. Đây là một cơ hội ít có nếu họ còn ở Việt Nam . Nước Mỹ
luôn luôn tạo hoàn cảnh thuận tiện để mọi người, nhất là giới trẻ vươn lên,
miễn là đừng quá biếng nhác
Rồi giữa vợ chồng với nhau, cũng có vài trục trặc đối xử. Tương quan vợ
chồng bình đẳng hơn. Nhiều người nữ dễ hòa nhập nên thành công mau lẹ. Một số
người nam gặp khó khăn thích ứng vì quá suy yếu trong thời gian cải tạo, quá
vất vả trong những năm chiến tranh. Những so bì, bất đồng xẩy ra khiến một số
gia đình đi vào tan vỡ, chia cách.
4-
Thành công hội nhập vào xã hội mới
Trong hơn một phần ba thế kỷ, hơn một triệu người Việt này đã hình thành một khối thiểu số có những sắc thái đặc biệt vừa làm phong phú và vừa thay đổi một phần nào cấu trúc căn bản của Hiệp Chủng Quốc Mỹ.
Trong hơn một phần ba thế kỷ, hơn một triệu người Việt này đã hình thành một khối thiểu số có những sắc thái đặc biệt vừa làm phong phú và vừa thay đổi một phần nào cấu trúc căn bản của Hiệp Chủng Quốc Mỹ.
Tới
Mỹ không sửa soạn với hai bàn tay trắng. Họ tức tưởi rời bỏ nơi chôn rau cắt
rốn trong hoang mang, vội vàng, không kịp suy nghĩ, nói chi đến sửa soạn. Họ
không biết là sẽ đi đâu, không biết tương lai sẽ ra sao miễn là xa lánh hiểm
họa cộng sản. Họ vào nước Mỹ đa số không nói được tiếng Anh, hầu hết không có
một Mỹ kim trong túi. Họ đến từ một văn hóa với nhiều khép kín, ràng buộc vào
một nếp sống phóng khoáng, tự do. Họ lạc vào rừng người có cái nhìn khác biệt
về chủng tộc, giống tính. Họ chóng mặt trước sự tiến bộ, phồn thịnh của một
quốc gia mới chỉ có hơn hai trăm năm lập quốc.
Với
bản tính nhẫn nhục, cần cù, thực tế, dễ thích nghi, có nhiều sáng kiến nhỏ, họ
đã tham gia vào nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống Mỹ quốc. Họ đã tạo dựng
nên những cơ sở kinh tế, thương mại vững chắc, củng cố và phổ biến văn hóa
Việt Nam vào
nền đa văn hóa địa phương. Hầu hết lớp người tỵ nạn tới Mỹ vào thập niên 70 đã
ổn định đời sống mật cách thỏa đáng.
Các
thế hệ Việt Nam thứ hai đã mau lẹ tiến tới để thu nhập tinh hoa kiến thức qua
nền giáo dục đa diện của nước Mỹ. Họ đã có nhiều đóng góp khoa học, kỹ thuật
đáng khen ngợi cũng như cung hiến cho nền hành chánh tiểu bang và liên bang
nhiều chuyên gia có khả năng điều hành, lãnh đạo.
Chúng
ta đã có những đại diện dân cử cấp liên bang cũng như tiểu bang, thành phố. Đã
có người giữ chức vụ cao trong hành pháp Hoa Kỳ, những vị chánh án liên bang.
Con số các khoa học gia, khoa bảng bác sĩ kỹ sư nổi danh cũng không phải là ít.
Đã có người phát minh ra khí giới có thể truy tìm địch thủ dễ dàng thì cũng có
những phẫu thuật gia nổi danh ghép cơ quan nội tạng, cứu nhân độ thế, những
khoa học gia không gian vũ trụ, những nhà toán học trẻ tuổi Việt Nam. Bằng sáng
chế khoa học của người Mỹ gốc Việt có thể nói là nhiều vô kể. Sự thành công của
thế hệ này đã tạo ra nhiều ngạc nhiên cho con dân bản xứ.
5-
Kết luận
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức.
Texas-Hoa Kỳ
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.