Hai
tổ̀ng thống Richard Nixon và Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn đầu năm 1969
Hiệp
định Hòa bình Paris về Việt Nam năm 1973 là một việc dùng sai thuật ngữ vì hòa
bình chỉ đến với Việt Nam vào tháng 4 năm 1975, và chắc chắn không phải theo
cách các điều khoản chính thức của Hiệp định đó đề ra.
Về
cơ bản, Hiệp định tách rời vấn đề quân sự và chính trị, trong đó quân sự thì
khá cụ thể nhưng chính trị thì cần nhiều đàm phán trong việc thực hiện những
điều khoản này và nó không thể xảy ra một cách có hiệu quả.
Hiệp
định lập ra một Ủy ban quân sự hỗn hợp, nhưng vì các quyết định của Ủy ban phải
được nhất trí hoàn toàn giữa các bên nên nó sẽ chỉ có thể dẫn tới thất bại.
Hiệp
định tạo ra một Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát gồm các thành viên từ các
quốc gia NATO, các nước trung lập, và các quốc gia Cộng sản, nhưng quyết định
của Ủy Ban này cũng phải được nhất trí hoàn toàn, do vậy Ủy ban cũng chỉ hoàn
toàn có tính nghi lễ.
Sau
khi hoàn tất văn bản cuối cùng, ông Nixon tuyên bố rằng Hoa Kỳ công nhận Việt
Nam Cộng Hòa, với Tướng Nguyễn Văn Thiệu là người đứng đầu, là "chính phủ
hợp pháp duy nhất của miền Nam Việt Nam".
Điều
đó cũng có nghĩa là ông sẽ ủng hộ những bên tham gia Hiệp định mà ông chọn và
bỏ qua các bên còn lại.
Chế
độ của ông Thiệu lần lượt từ chối hoàn toàn không công nhận Chính phủ Cách mạng
lâm thời (Việt Cộng), và sẽ chỉ ký một thỏa thuận riêng biệt không có bất cứ
tham chiếu nào nhắc tới họ.
Như
vậy mỗi bên ủng hỗ những điều khoản có lợi cho họ, điều này có nghĩa trên tổng
thể Hiệp định Paris
là vô nghĩa.
Ảo
tưởng
Hai
ngoại trưởng Mỹ (Henry Kissinger) và Liên Xô (Andrei Gromyko): các cường
quốc có những tính toán riêng trên chủ đề Việt Nam
Các
cuộc chiến tranh cách mạng rất hiếm khi kết thúc qua con đường ngoại giao.
Đối
với Tổng thống Hoa Kỳ, ông Richard Nixon, và cố vấn an ninh quốc gia của ông,
ông Henry Kissinger, thì Hiệp định Paris đem lại cho họ thời gian mà họ hy vọng
sẽ thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam bằng cách nói với Trung Quốc và Nga,
hai quốc gia đang bắt đầu chia rẽ sâu sắc, rằng nếu họ không hợp tác với Hoa Kỳ
bằng cách cắt viện trợ quân sự cho phe Cộng Sản Việt Nam, thì Hoa Kỳ sẽ thực
hiện các biện pháp tăng cường cho kẻ thù Cộng Sản của họ, và như vậy đe dọa sẽ
dùng chính hai quốc gia cộng sản lớn này đối chọi lẫn vào nhau - được gọi là
"đòn tay ba".
Niềm
tin rằng ngoại giao thông minh sẽ có hiệu quả đã làm Chính phủ Mỹ bất di bất
dịch, và họ tin vào ảo tưởng này cho đến khi thực tế ở Việt Nam trở nên
không thể đảo ngược.
Hoa
Kỳ nói rõ ràng với phía Việt Nam Cộng hòa Dân chủ (VNDCCH), tức Bắc Việt, rằng
sẽ có viện trợ kinh tế như một "động lực hữu hình" nếu họ ngưng
"các hoạt động xâm lược" miền Nam .
Điều
đáng ngạc nhiên là VNDCCH vẫn coi những hứa hẹn đó mà họ lên kế hoạch (mặc dù
không bao giờ có ý định thực hiện), là biện minh chính đáng cho việc yêu cầu
bồi thường chiến tranh và viện trợ, thậm chí tới tận ngày nay.
Viện
trợ quân sự
Tuy
nhiên, những người Cộng sản đã kiệt lực, tụt xa về số lượng và trang thiết bị
so với lực lượng của ông Thiệu, vốn được nhận dòng cung ứng khổng lồ các thiết
bị quân sự từ Hoa Kỳ mà rất nhiều trong số đó họ không thể duy trì hoặc vận
hành.
Những
vũ khí mới này không chỉ vi phạm Hiệp định Paris mà chúng còn khuyến khích ông Thiệu có
hành động liều lĩnh về quân sự mà cuối cùng đã khiến ông thua trận.
Thật
vậy, thực tế này đã khiến một số người trong quân đội Mỹ kết luận rằng cung cấp
thêm vũ khí cho chế độ Sài Gòn là một sự lãng phí tiền bạc (mà nó được chứng
minh).
Hơn
nữa, tới năm 1973 nhiều sĩ quan Mỹ cũng nhận thức được thực tế rằng chức năng
chủ yếu của giới sĩ quan chỉ huy quân đội của ông Thiệu là củng cố quyền lực
chính trị cá nhân của họ chứ không phải là phục vụ như là một lực lượng chiến
đấu hữu hiệu và như vậy thì ưu thế quân sự của họ là vô nghĩa.
Ông
Thiệu cũng tin rằng Hoa Kỳ sẽ trở lại cuộc chiến bằng máy bay B-52: các mục
tiêu được lên danh sách, giới điều phối không lưu Mỹ ở Thái Lan luôn sẵn sàng.
Vụ bê bối Watergate của ông Nixon, cuối cùng đã dẫn tới việc ông phải từ chức
Tổng thống Mỹ, cũng đã kết thúc khả năng này.
Ông
Thiệu, tuy nhiên, không bao giờ thực sự nhận ra rằng đồng minh đầy sức mạnh và
thân cận nhất của ông lúc này đã không còn nữa.
Hiệp
định Paris cũng gây chia rẽ trong giới lãnh đạo miền Bắc Việt Nam, một số người
nghĩ rằng nó có thể phải mất một hoặc nhiều thập niên nữa trước khi có chiến
thắng.
Một
đợt vũ khí, và khoảng 23.000 cố vấn Mỹ và nước ngoài tới dạy cho Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa cách sử dụng và duy trì những vũ khí đó đã khiến ông Thiệu thêm tự
tin, và ngày càng tự tin hơn nhờ cam kết bí mật của Nixon rằng không lực Mỹ có
thể trở lại tham gia cuộc chiến nếu phía VNDCCH đưa quân trở lại vào miền Nam,
một điều Quốc hội Mỹ không hề biết gì và rất có thể sẽ phản đối nếu điều đó xảy
ra.
Yếu
tố quyết định
Trung
Quốc chuyển hướng: tiến sỹ Henry Kissinger (trái) với Chu Ân Lai và Mao
Trạch Đông năm 1972
Tuy
nhiên, cả Trung Quốc và Liên Xô, mặc dù ngày càng chia rẽ, đều đã không phản
bội những người Cộng sản Việt Nam theo cách thức và thời gian mà chiến lược
ngoại giao phức tạp của ông Kissinger đã hy vọng.
Ảo
tưởng rằng đường lối ngoại giao lớn sẽ thành công ở nơi mà sức mạnh quân sự
thất bại đã trói buộc Nixon và Kissinger cho đến khi đã quá muộn. Hơn nữa, các
yếu tố quyết định kết quả cuối cùng cuộc chiến rất dài này vượt ra ngoài tầm
kiểm soát của Mỹ, ngay cả Bộ Chính trị ở Hà Nội không hiểu hoặc đánh giá đúng
những yếu tố đó.
Ông
Thiệu dùng thời gian ngưng nghỉ mà Hiệp định Paris đem lại để cố gắng củng cố
quyền lực của mình và trong quá trình đó bắt đầu làm cho các thành phần trong
dân số miền Nam, những người không phải là "Cộng sản" nhưng muốn chấm
dứt cuộc xung đột đã làm tổn thương đất nước Việt Nam suốt nhiều thập kỷ, trở
nên xa lánh, chán ghét ông.
Hiệp
định được lập ra với chủ ý, ít nhất là bề ngoài, mang lại hòa bình và hòa giải,
chấm dứt chiến tranh. Họ không biết gì về các học thuyết của ông Kissinger cho
phép Mỹ cứu vớt "tín nhiệm" của Mỹ.
Dân
thành thị ở miền Nam Việt Nam
lúc này bị đàn áp chưa từng có từ chế độ của ông Thiệu, đặc biệt là các Phật
tử. Báo chí và truyền hình bị kiểm soát ở mức độ mới, và tình trạng đàn áp đã
khiến một bộ phần ngày một lớn dân thành thị trở nên chán ghét lánh xa. Những
người này vốn không phải là Cộng sản nhưng ông Thiệu khiến các đồng minh tự
nhiên của ông trở nên xa lánh: nhiều người đã trở thành trung lập.
Những
người tị nạn muốn trở lại làng quê mình ở khu vực do phe Cộng sản kiểm soát
nhìn chung đã không được phép - một việc vi phạm các điều khoản của Hiệp định Paris .
Gạo
mà nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long được phép dự trữ và bán ra đã bị
giám sát cẩn thận để ngăn chặn gạo được chuyển qua cho các lực lượng quân giải
phóng.
Ông
Thiệu, trong khi đó, sử dụng nguồn cung ứng dồi dào về vũ khí mà Mỹ đã gửi cho
ông, đặc biệt là pháo, và đến năm 1974, các cuộc pháo kích được tái tục với
tổng lực (nhưng mà không có sự tham gia của lực lượng Mỹ), với Quân Lực VNCH
bắn một lượng lớn hơn nhiều so với phía những người Cộng sản.
Trong
thực tế, bất kể mục đích lập ra để làm gì thì Hiệp định Paris
1973 chỉ mang lại đoạn dạo đầu trong cuộc chiến tranh Việt Nam .
Sai
lầm của ông Thiệu là đã không cố gắng làm cho Hiệp định hòa bình có hiệu quả,
chia sẻ một số quyền lực với giới Phật tử, tầng lớp trung lưu, thậm chí một số
người Cộng sản trên danh nghĩa - nhất là những người thực sự theo đường lối dân
tộc chủ nghĩa.
Thay
vào đó, ông tưởng rằng sức mạnh vượt trội về vũ khí của ông sẽ cho phép ông
hoàn toàn giành chiến thắng. Ông đã rất sai lầm trái, và kết cục là phải sống
lưu vong khi quân đội của ông tan rã vào mùa xuân năm 1975.
Gabriel
Kolko
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một sử gia cánh tả đã viết nhiều về
Việt Nam .
Tư liệu trong bài dựa trên cuốn 'Anatomy of a War: Vietnam, the US and the
Modern Historical Experience' từng được NXB Quân đội Nhân dân dịch và ấn hành
ở Việt Nam nhưng tác giả nói đã bị "bỏ rất nhiều" những đoạn có
tính chỉ trích. Ông cùng vợ từng thăm Việt Nam tháng 12/1973 và đã đi viếng hai
bên vùng vĩ tuyến 17 ở tỉnh Quảng Trị. Ông thăm Việt Nam lần cuối năm 1987 và
không còn trở lại sau khi phê phán chính sách Đổi mới của Việt Nam.