Tôi là một đứa trẻ
trầm lặng, mê sách, hay dành hàng giờ trong thư viện và hiệu sách lớn, lật
giở từng gáy sách với hy vọng sẽ tìm thấy một tựa sách nào đó cất tiếng
gọi tên mình. Tại tiệm Barnes & Noble, trong một góc nhỏ dán nhãn
"International" (Quốc tế), tôi bắt gặp đi bắt gặp lại duy nhất một
cuốn sách về Việt Nam với nhan đề The Sacred Willow: Four Generations
in the Life of a Vietnamese Family (Cây liễu thiêng: Bốn thế hệ trong một
gia đình Việt Nam) của Dương Vân Mai Elliott. Khi lật qua những trang đầu tiên,
tôi có cảm giác đây là cuốn sách tiếng Anh duy nhất thực sự xem Việt Nam
một cách nghiêm túc _ nhưng nó cũng nặng nề vô cùng. Quá nặng. Lúc nào
cũng là chuyện ly tán, khổ đau, lạnh lùng của chiến tranh, và những hậu
quả kéo dài sau đó.
Biết bao cuốn sách _
hồi ký, lịch sử, thậm chí tiểu thuyết _ tôi đọc lúc bấy giờ dường như
không thể tồn tại ngoài nỗi đau – hay nói đúng hơn, luôn bị nỗi đau định
hình.
Lúc ấy, tôi còn chưa biết đến khái niệm "di dân học" hay "chấn thương xuyên thế hệ," nhưng tôi hiểu rõ cảm giác mà những câu chuyện đó mang lại: sự mỏi mệt. Không phải thứ mệt mỏi thân xác, mà là thứ gì đó sâu thẳm hơn, âm ỉ trong tâm hồn. Như thể sức nặng của của lịch sử đã khắc sâu vào da thịt tôi, và từng câu chữ lại nhấn thêm vào vết bầm ấy. Không phải tôi không muốn biết mình đến từ đâu _ tôi rất muốn. Nhưng "cách" mà câu chuyện được kể mới là điều quan trọng. Tôi khao khát những câu chuyện không bắt đầu hay kết thúc bằng tiếng trực thăng, tiếng súng nổ, hay âm vang của một thành phố đang sụp đổ.
Việt Nam của tôi _ Việt
Nam của thập niên 1990 _ nghèo đói, vâng, nhưng cũng dịu dàng và nhiệm màu,
với những người chú chở ba đứa trẻ trên chiếc xe máy, với làn khói nhang
cuộn quanh các bậc cửa, với tiếng cười vang vọng giữa những bức tường xi
măng của những ngôi nhà thô. Đó cũng là một sự thật. Nhưng chẳng ai viết về
Việt
Phải đến khi vào đại
học, tôi mới bắt đầu quay trở về. Tôi đọc lại các tác giả Việt Nam, đầy
tò mò. Điều gì đã thay đổi? Có lẽ tôi đã trưởng thành hơn, đủ sức chịu đựng
nỗi đau. Có lẽ tôi đã bắt đầu hiểu rằng không phải vết thương nào cũng nên
né tránh _ có những vết thương cần phải đối diện. Những vết sẹo tinh thần vẫn
còn đó, nhưng tôi nhận ra văn chương có thể là một cách để tôi chạm vào
những vết sẹo ấy một cách dịu dàng, để cảm mà không khiến những vết
sẹo trong tôi rỉ máu trở lại.
Nhưng ngay cả lúc ấy
tôi vẫn chưa thể đến gần chủ đề chiến tranh. "Chiến tranh chống Mỹ
cứu nước," như cách được gọi ở Việt Nam, vẫn còn quá gần, quá ồn ào,
quá rối ren trong sự mặc cảm của nước Mỹ và im lặng của người Việt hải
ngoại. Tôi tìm nơi ẩn náu trong những cuộc chiến trước đó _ thời Pháp thuộc,
những nỗi niềm của thế hệ trước, những nỗi u hoài đẹp đẽ của những
tiểu thuyết gia Việt viết bằng tiếng Pháp, những trái tim còn mắc kẹt
trong chủ nghĩa lãng mạn phù phiếm. Tôi đọc Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng,
và cả những bài thơ Việt của Cung Giũ Nguyên. Tôi tự nhủ rằng nếu những biến cố
ấy xa hơn về mặt thời gian, có lẽ chúng sẽ bớt đau hơn. Nhưng không. Nỗi đau
không thuộc về niên đại thời gian, mà thuộc về dòng giống, về ký ức truyền đời.
Tôi dần hiểu ra, với
tất cả sự lưỡng lự và miễn cưỡng, rằng văn học của chúng ta không phải là để
thanh tẩy nỗi đau, mà để tồn tại. Các nhà văn của thập niên 1980 và 1990
không nhất thiết viết để khép lại vết thương. Họ viết để bám víu, để khẳng định
sự hiện diện, để giành lấy một khoảng không gian trong một đất nước đòi họ
phải hòa nhập và quên đi. Câu chữ của họ là chiếc phao cứu sinh. Những cuốn
hồi ký của họ là bằng chứng rằng họ đã có mặt nơi đây, rằng chúng ta đã có mặt.
Họ không viết để chữa lành. Họ viết để tiếp tục sống. Catfish and
Mandala (Cá tra và Mạn-đà-la) của Andrew X. Pham là một ví dụ điển
hình _ câu chuyện bắt đầu là hành trình và kết thúc bằng sự đối diện, không chỉ
với những hướng đi hay đất nước, mà với chính bản thân.
Hành trình của
Andrew X. Pham được khắc họa như một cuộc trở về _ cả theo nghĩa đen
lẫn nội tâm _ nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng đối với tôi. Bởi
lẽ, rất nhiều câu chuyện tôi từng lớn lên cũng đều kết thúc bằng sự ra đi: những
con thuyền bị rò rỉ, những sự hỗn loạn ở các tòa đại sứ, những cuộc
trốn chạy giữa đêm khuya. Chúng xoay quanh những điều mà tôi đã trốn khỏi.
Nhưng hành trình của Andrew X. Pham _ ngổn ngang và chưa trọn vẹn–nói về những
gì ta có thể dám trở về đối diện. Về ý nghĩa việc tìm kiếm một đất nước
đã nhào nặn nên mình nhưng chưa từng thực sự biết đến mình. Cuộc trở về
ấy không mang dáng dấp oai hùng. Nó vụng về, dang dở, chênh vênh. Và chính
trong điều đó, tôi nhận ra chính mình.
Tôi trở về Việt Nam
lần đầu tiên một mình khi vừa bước vào tuổi đôi mươi. Tôi tự nhủ rằng đó
là để kết nối lại, để hiểu hơn. Nhưng thật ra, tôi đang đi tìm một điều gì đó
giống như sự cho phép _ sự cho phép để thuộc về, để cảm nhận, để khẳng định.
Sài Gòn không giống như những gì tôi từng tưởng tượng hay ghi nhớ. Nó lớn
hơn, nhanh hơn, ồn ào hơn. Họ hàng đón tôi bằng sự ấm áp, nhưng cũng đầy tò
mò pha một chút xa cách. Quá Mỹ, nhưng cũng không hẳn là Mỹ. Tiếng Việt của
tôi tạm ổn nhưng không trôi chảy. Cử chỉ của tôi có phần quá lịch thiệp.
Câu hỏi tôi đặt ra thì quá trừu tượng, từ ngữ tôi dùng thì đã lỗi thời.
Tôi đã quay vài lần.
Mỗi chuyến đi khiến tôi thêm vụn vỡ, nhưng cũng đầy đặn hơn. Việt Nam không hẳn
là nhà. Nhưng cũng không phải sự xa lạ. Nó là một điều gì đó khác hẳn _ một
nơi mà ký ức và tưởng tượng đan xen vào nhau, nơi sự vắng mặt trở thành một
hình thức của sự hiện hữu.
Chúng ta chưa có đủ
những câu chuyện về sự trở về. Phần lớn văn chương Việt hải ngoại viết bằng tiếng
Anh _ một cách dễ hiểu _ đã được định hình bởi chấn thương của sự ra đi. Những
câu chuyện về thuyền nhân, các trại tỵ nạn, hệ thống hành chính của kiếp
lưu vong. Những câu chuyện ấy khẩn thiết và cần thiết _ chúng đã mở ra không
gian trong một thế giới từng ưa chuộng sự im lặng. Nhưng sự trở về cũng là một
chiến địa. Và là một nơi của ân sủng. Sự trở về đòi hỏi một loại can đảm khác:
để nhìn thấy những gì đã đổi thay, và những gì vẫn y nguyên; để thừa nhận rằng,
chữa lành không phải là một cuộc hồi hương, mà là một chuyến đi vòng vèo, dài
và quanh co.
Có lẽ chỉ bây giờ
chúng ta mới thực sự bắt đầu viết nên những câu chuyện như thế. Không chỉ là
trốn chạy, mà là quay về lại. Những câu chuyện không khởi đầu bằng sụp đổ mà
bằng sự tò mò. Không chỉ hỏi "Điều gì đã xảy ra với chúng ta?" mà còn
là "Chúng ta sẽ có thể trở thành gì?"
Giờ đây, năm 2025, mọi
thứ dường như đã khác. Hay đúng hơn, mọi thứ đã trở nên rõ ràng hơn. Các câu
chuyện của người Mỹ gốc Việt không còn bị giấu trong những góc khuất của hiệu
sách. Chúng đã được trưng bày trên những chiếc bàn trang trọng, được giảng
dạy trong các giáo trình đại học, được phê bình, tranh luận, và quan trọng
nhất _ được đọc. Chúng ta đang chứng kiến một sự bùng nổ trong việc xuất bản
văn học của người Mỹ gốc Việt: hồi ký, tiểu thuyết, thơ, truyện tranh. Những
gì từng là những tiếng thì thầm giờ đã trở thành một hợp xướng.
Đôi khi có cảm
giác như chúng ta đang bước vào một khoảnh khắc đặc biệt. Văn chương
người Mỹ gốc Việt đang thăng hoa _ thậm chí, trong một số giới, còn trở nên
thời thượng. The Sympathizer (Cảm tình viên), tiểu thuyết thể loại
gián điệp pha triết học của Việt Thanh Nguyễn, đã được trao giải Pulitzer năm
2016 và đã được chuyển thể thành phim truyền hình lớn trên HBO với
Robert Downey Jr. vào vai chính. Trong khi đó, Ocean Vương, với tiểu thuyết đầu
tay rực rỡ On Earth We're Briefly Gorgeous (Một thoáng ta rực rỡ ở
nhân gian) _ mà tôi đưa vào giáo trình của mình _ đã trở thành một cái
tên quen thuộc và là ứng viên chung khảo Giải Sách Quốc gia của Hoa Kỳ. Hồi
ký minh họa The Best We Could Do (Những gì tốt nhất chúng tôi đã có
thể làm) của Thi Bùi đã trở thành một cột mốc cả văn đàn lẫn học giới. Bằng
sự dịu dàng, bao dung và âm thầm của riêng họ, Nguyễn Phan Quế Mai, Monique
Trương và Andrew Lâm đã để lại những tác phẩm không chỉ truy vấn quá khứ mà còn
trú ngụ trong chính sự phức tạp chưa có hồi kết ấy.
Và còn có những tiếng
nói khác như Paul Tran, với All the Flowers Kneeling (Muôn hoa quỳ xuống),
xé toạc sự im lặng của chấn thương liên thế hệ; Kim-Anh Schreiber, với Fantasy (Ảo
huyền), một tác phẩm vượt thể loại, tái tạo ký ức qua tự truyện hư cấu,
phê bình điện ảnh, và nhịp điệu ma quái của nghệ thuật trình diễn; và Vi Khi
Nao, với Fish in Exile (Con cá lưu đày) cùng các tác phẩm khác _ làm
mờ ranh giới giữa thơ, văn xuôi và triết học. Những cây bút này từ chối sự
khép lại. Họ liều lĩnh dấn thân. Tác phẩm của họ không đòi được thấu hiểu;
mà thách thức bạn đọc ở lại cùng nó.
Phê bình văn học
cũng đã vươn mình để đáp ứng làn sóng sáng tác này. Những học giả như
Isabelle Thuy Pelaud, Lan Dương và Tuấn Hoàng đang xây dựng các nền tảng lý
thuyết mà văn chương của chúng ta xứng đáng có được. Công trình của họ không
chỉ đặt câu hỏi về cách "ta viết như thế nào?" mà còn "vì
sao ta phải viết?" Giữa lúc đó, các tổ chức như Diasporic Vietnamese
Artists Network (DVAN, Mạng lưới văn nghệ sĩ Việt Nam Hải ngoại) đang kiến tạo
những không gian mới nơi các nghệ sĩ lưu vong có thể tìm thấy nhau, nâng đỡ
nhau và cùng nhau xây dựng tương lai. Chúng ta không chỉ viết nhiều hơn, mà
còn đọc và xuất bản tác phẩm của nhau.
Nhưng tôi tự hỏi: điều gì sẽ xảy ra khi một điều từng bị chôn vùi từ lâu bỗng trở nên dễ tiếp cận với cả thế giới? Khi một lịch sử từng quá đau đớn để cất thành lời nay lại được tiêu thụ rộng rãi, bị phân tích trong lớp học, chuyển thể trên màn ảnh, in trên những chiếc túi tote?
Không thể phủ nhận rằng
hiện nay, Việt Nam đang trở nên cuốn hút hơn _ thậm chí, có phần gợi
cảm. Tôi không nói điều đó với vẻ mỉa mai, mà như một sự mê hoặc đặc biệt: của
ký ức, của quốc thể, của thẩm mỹ. Với một số người, Việt Nam là biểu tượng
được lãng mạn hóa của tinh thần kháng thực dân. Với những người khác _ đặc
biệt là những ai chưa từng sống qua chiến tranh, Việt Nam là một quê hương được
giành lại bằng ngôn ngữ và khát vọng. Ngay trong chính cộng đồng người Việt,
mối quan hệ với Việt Nam cũng đã thay đổi. Khoảng cách chia cắt giữa thế hệ
vẫn tồn tại: với bậc cha chú, vết thương vẫn chưa lành; còn với những
người Việt trẻ, Việt Nam vừa là một câu hỏi, vừa là một tiếng gọi.
Điều khiến thời
điểm này trở nên một khoảnh khắc đặc biệt chính là sự trôi qua của thời
gian. Năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Sài Gòn thất thủ. Sự khẩn
thiết của quá khứ dường như đã nguôi ngoai, ít nhất là trong trí tưởng tượng
của người Mỹ. Cuộc chiến không còn gây ra những cơn hoảng loạn đạo đức.
"Kẻ thù" giờ đây là điểm du lịch. Khu rừng từng gieo rắc nỗi kinh
hoàng giờ đây chào đón phượt thủ và blogger ẩm thực. Câu chuyện, theo một
nghĩa nào đó, đã được làm mềm đi. Và chính trong sự dịu đi ấy, những câu
chuyện mới bắt đầu xuất hiện.
Từng gắn liền với chiến tranh và khốn khổ, Việt Nam nay là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Năm 2023, tăng trưởng GDP đạt 5,05% (theo Ngân hàng Thế giới) và đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục 38,23 tỷ USD vào năm 2024 (theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Việt Nam giờ đây không còn chỉ được định nghĩa bởi quá khứ. Các thành phố rộn ràng với start-up công nghệ và trung tâm thương mại. Giới trẻ định hình xu hướng trên các nền tảng mạng xã hội. Các đại học xây dựng mạng lưới nghiên cứu với nhiều nước châu Á và châu Âu. Đây không còn là đất nước bị chiến tranh tàn phá như trong ký ức của cha mẹ tôi.
Và ngày càng có nhiều
người Việt hải ngoại, cả tôi, quay về–để thăm lại, để kết nối lại, để giành lại
điều gì đó. Nhưng những gì chúng ta tìm thấy không phải lúc nào cũng dễ chịu.
Đường chân trời Sài Gòn thay đổi theo từng năm. Những tòa cao ốc vươn lên nơi
gia đình chúng tôi từng tháo chạy. Các khu phố cũ bị san bằng để nhường
chỗ cho những chung cư hào nhoáng mang tên kiểu Pháp. Xe máy vẫn còn, đồ ăn
vẫn tuyệt vời, nhưng sự chênh vênh là có thật. Đất nước đang thay đổi, nhưng
những bóng ma thì vẫn ở lại.
Gần đây, tôi tham dự một hội thảo tại Đại học Texas Tech với chủ đề 1975: Kết thúc chiến tranh Việt Nam (1975:
The End of the Vietnam War).
Chính tên gọi của hội thảo đã gợi nhiều suy nghĩ. "Kết thúc" ư? Nhưng với ai? Tôi cùng đứng chung sân khấu với nhà văn Christina Võ và cha cô, bác sĩ và nhà nghiên cứu Nghĩa M. Võ, đồng tác giả cuốn Việt Nam của con, Việt Nam của cha (My Vietnam, Your Vietnam), một hồi ký song hành ghi lại sự chuyển giao phức tạp giữa các thế hệ. Cuốn sách của họ là một minh chứng rằng chiến tranh vẫn sống _ nó vẫn hiện diện không chỉ trong ký ức mà trong cử chỉ, trong những nỗi lo âu, và trong cả những khoảng cách vô hình giữa chúng ta.
Việt Nam ngày nay
đã trở thành điểm đến toàn cầu, nhưng vẫn là một nơi đầy những nghịch lý.
Kiểm duyệt vẫn tồn tại. Vi phạm nhân quyền vẫn là vấn đề. Dù đã có những cuộc
đối thoại đầy hứa hẹn về quyền của cộng đồng LGBTQ+ và tự do nghệ thuật, những
sáng kiến ấy thường bị đình trệ dưới áp lực chính trị. Các cuộc khủng hoảng
môi trường đang hiện hữu khi đồng bằng sông Cửu Long sạt lở và các đô
thị ngập lụt. Và dù Việt Nam đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường
trong mắt thế giới, nhiều người dân trong nước vẫn bị hạn chế trong việc
nói về quá khứ _ thậm chí là có được quyền nói hay không.
Như nhà văn Việt Thanh Nguyễn từng viết trong Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War (Không gì chết hẳn: Việt Nam và Ký ức chiến tranh), "Chúng ta phải nhớ để tiếp tục sống, nhưng cũng phải quên đi." Nghịch lý đó nằm ở trung tâm của văn học người Việt hải ngoại. Chúng ta viết để ghi nhớ những gì người khác muốn xóa bỏ. Chúng ta viết để quên những gì có thể nuốt chửng ta. Chúng ta viết để tưởng niệm người đã khuất, và để mường tượng ra cuộc đời mà họ chưa bao giờ có. Nhớ quá nhiều có thể làm ta tê liệt. Còn quên hẳn lại là một dạng bạo lực. Thế nên ta liên tục chao đảo giữa hai thái cực ấy _ giữa ký ức và huyền thoại, giữa lịch sử và sáng tạo.
Vậy, viết vượt ra khỏi chiến tranh nghĩa là gì?
Và còn những người
sinh ra trong cộng đồng người Việt hải ngoại thì sao _ những người
lớn lên và gọi những nơi như Garden Grove, Dorchester hay Montréal là quê
nhà? Nhiều người trong số họ, trong số chúng tôi, không thừa kế chiến tranh một
cách trực tiếp, nhưng đã thừa kế bóng đổ của nó. Những khoảng lặng của cha mẹ.
Nhưng chúng ta không chỉ là người thừa kế. Chúng ta là những người kiến tạo.
Chúng ta mang trách nhiệm không chỉ ghi nhớ những gì đã xảy ra, mà còn phải
tưởng tượng điều có thể xảy ra. Viết ra những câu chuyện để không xóa bỏ
qua khứ, nhưng cũng không cúi đầu trước nó. Những câu chuyện dịu dàng và bất
khuất. Những câu chuyện dám chạm tới sự hạnh phúc. Những câu chuyện từ
chối biến nỗi đau thương thành một thứ hộ chiếu.
Chúng ta phải tạo
chỗ cho cả sự bất kính. Cho nỗi khát khao không phải lúc nào cũng
nghiêm trang. Cho những nhân vật vụng về, rối ren, không anh hùng. Bởi nếu tất
cả những gì chúng ta để lại chỉ là những câu chuyện về nỗi đau, thì chúng
ta đã thất bại trong việc tưởng tượng ra sự toàn vẹn của chính mình.
Thế nhưng, chiến tranh vẫn chưa buông tha chúng ta. Không hoàn toàn. Tôi cứ trở lại với nó, hết lần này đến lần khác, không phải vì tôi muốn, mà vì nó vẫn còn đó. Ngày hôm nay, tôi viết về âm nhạc và văn học Việt Nam, hiểu rằng mỗi nốt nhạc, mỗi câu chữ đều mang theo một lịch sử mà tôi vẫn đang học cách ôm lấy. Nó ở trong giọng mẹ tôi. Trong khoảng lặng của cha tôi. Trong những giọt nước mắt lặng lẽ sau ly rượu whisky và một bản tình ca của Phạm Duy. Trong những điều tôi vẫn chưa thể nói trọn bằng tiếng Việt. Trong những mái nhà chúng tôi đã bỏ lại, và những mái nhà chúng tôi chưa kịp xây.
Vậy nên, xin nâng ly
vì ký ức. Vì những câu chuyện _ dẫu không hoàn hảo, nhưng chân thật _ mang tên
chúng ta. Vì một nền văn chương được sinh ra từ khổ đau, nhưng không bị trói
buộc bởi nó. Vì những người viết không sợ nhìn lại. Và vì những người dám
nhìn về phía trước. Chúng ta viết không phải để khép lại cuốn sách, mà để những
trang sách ấy vẫn tiếp tục được lật mở.
Bao giờ chúng ta sẽ
ngừng viết về chiến tranh?
Có lẽ là khi chúng
ta thật sự làm hòa với những gì vẫn ám ảnh mình. Nhưng ngay cả lúc ấy, tôi
mong ta sẽ không ngừng. Không phải vì chúng ta bị mắc kẹt trong quá khứ, mà
vì mỗi câu chuyện đưa ta đến gần hơn với điều gì đó chân thật _ về gia đình,
về những rạn nứt, và về tương lai. Bởi chiến tranh chưa bao giờ thực sự kết
thúc.
Và bởi câu chuyện
ấy, đến giờ, vẫn đang được viết tiếp.
TS _ Vinh Phú
Phạm


No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.