Người
Việt vẫn trong quá trình hội nhập tại Mỹ
Chắc
nhiều người Việt ngạc nhiên khi nghe một cuộc nghiên cứu tìm trong các số thống
kê thấy rằng người Mỹ gốc Việt thua kém các sắc dân gốc Châu Á khác, về hai
mặt, lợi tức và trình độ học vấn.
Dù
ngạc nhiên hay không, chúng ta cũng nên chú ý đến kết luận này, và thử tìm hiểu
nguyên do. Nhất là khi, mới đầu tuần này, chúng ta đặt cho nhau câu hỏi: Có
hãnh diện làm người Việt Nam
hay không?
Ðã
nhiều người nghiên cứu về di dân Châu Á ở nước Mỹ. Mới nhất, là hai giáo sư
phân khoa Xã hội học thuộc Ðại Học Brown (Brown University ).
John R. Logan và Weiwei Zhang đã đặt tựa cho công trình khảo cứu của họ là
“Tách biệt nhưng Bình đẳng” (Separate but Equal). Hai tác giả được lợi hơn
những nhà nghiên cứu đi trước; vì họ có thể sử dụng và so sánh các dữ liệu mới,
thu thập được sau ba cuộc kiểm kê dân số ở Mỹ, 1990, 2000 và 2010.
Trong
các tài liệu mới, người ta không gom tất cả các di dân từ Châu Á vào một nhóm,
mà phân tách ra các nguồn gốc quốc gia khác nhau. Nhờ thế, người nghiên cứu
không những có thể phân biệt và so sánh người di dân gốc Á với các thành phần
khác trong xã hội Mỹ mà còn phân biệt kỹ hơn, thí dụ sẽ thấy người Việt Nam khác với
người Trung Hoa hoặc Hàn Quốc.
Chính
vì vậy, đọc trong bài khảo cứu của Logan
và Zhang, chúng ta sẽ biết nhiều điểm riêng biệt trong lối sống người Việt ở
Mỹ, mà khi nhà quan sát coi tất cả các di dân từ Châu Á giống nhau thì không
thấy được. Khi biết người Việt có những điểm tương đồng hoặc khác biệt với các
di dân Châu Á khác, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về cộng đồng người Việt ở nước Mỹ.
Nhân đó, chúng ta sẽ tìm hiểu xem nguyên do nào đã gây ra những khác biệt giữa
người Việt và các cộng đồng di dân Châu Á khác.
Nhóm
thiểu số
Sáu
sắc dân Châu Á đông nhất ở Mỹ, là Trung Hoa, Ấn Ðộ, Phi Luật Tân, Hàn Quốc,
Việt Nam, và Nhật Bản
Hai
tác giả chọn sáu sắc dân Châu Á đông nhất ở Mỹ, là Trung Hoa, Ấn Ðộ, Phi Luật
Tân, Hàn Quốc, Việt Nam, và Nhật Bản. Di dân Châu Á tại Mỹ là nhóm “thiểu số”
gia tăng nhanh nhất ở Mỹ, tăng 250% giữa hai cuộc kiểm tra 1990 và 2010; tổng
cộng hiện nay lên tới 18 triệu người; vào năm 1990 số người nói tiếng Tây Ban
Nha (Hispanics) cũng chỉ chừng đó. Trong số người gốc Á Châu, tăng nhanh nhất
là người Ấn Ðộ, lên gấp bốn lần trong 20 năm đó. Nhưng tổng số người Ấn Ðộ hiện
chỉ có 3.2 triệu người, còn thua người gốc Trung Hoa (4 triệu) và Phi Luật Tân
(3.4 triệu).
Có
nhiều điểm tương đồng giữa người gốc Việt và các sắc dân Châu Á khác. Di dân Á
Châu tương đối khá giả hơn các dân Mỹ khác không da trắng; thí dụ chỉ có 6%
sống dưới “mức nghèo khó” trong khi tỷ lệ lên tới 15% khi tính chung tất cả
những người gốc di dân. Người Á Châu nói chung tương đối có lợi tức ngang bằng
hoặc cao hơn người Mỹ da trắng. Nhưng dù là người Việt hay người Trung Hoa, họ
cũng giống người Mỹ gốc Phi Châu hoặc gốc nói tiếng Tây Ban Nha, là thường sống
gom lại gần nhau hơn là hòa nhập vào xã hội người Mỹ da trắng. Các khu Little
Sài Gòn cũng như các phố Tàu, là trung tâm thu hút những người cùng tổ tiên.
Khi nói đến tình trạng quy tụ, tập trung sống với nhau, của người Mỹ da đen
(gốc Phi Châu) hoặc nói tiếng Tây Ban Nha, thì lý do chính thường vì họ đều
sống trong những khu nghèo. Nhưng người gốc Châu Á quy tụ lại không phải vì lợi
tức thấp, mà vì lý do văn hóa.
Phần
lớn họ sinh ra ở quê cũ, nên vẫn giữ các phong tục cũ. Chỉ trong đám người gốc
Nhật là số người sinh ra tại Nhật Bản có tỷ lệ thấp nhất, chỉ chiếm khoảng 35%
vào năm 1990 và tăng lên thành 40% vào năm 2010. Tỷ số thấp của người gốc Nhật
trong hiện tượng này có lý do dễ hiểu. Họ là lớp di dân Á Châu đến nước Mỹ sớm
nhất, đặc biệt đến nước Mỹ làm công nhân từ thế kỷ 19. Ngoài ra, có một thời
gian chính phủ Mỹ kỳ thị, không chấp nhận di dân gốc Nhật. Còn người gốc Việt
và gốc Hàn
Quốc thì có tới 80% sinh ở chính quán; chỉ có 20% sinh ra ở Mỹ.
Nếp
sống của họ khác người Mỹ cho nên tự nhiên họ cũng muốn sống gần gũi hơn với
những người cùng chia sẻ các tập quán, thức ăn, và nhất là tiếng nói. Nhiều
người không sinh ở Mỹ gặp khó khăn suốt đời khi muốn nói đúng tiếng Anh. Dù
sao, yếu tố chính thu hút người di dân gốc Á quy tụ lại chính là văn hóa chứ
không phải kinh tế. Các cuộc nghiên cứu trước đây tại New York và Los Angeles
đã thấy những di dân khá giả gốc Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Ðộ, và Phi Luật Tân đều
thích sống trong các khu đông người cùng gốc.
Người
Mỹ gốc di dân Ấn Ðộ có trình độ học vấn cao nhất, trong bình có 15.5 năm học,
tức là tốt nghiệp đại học.
Vì
thế, lợi tức những người này cũng cao hơn người Mỹ trắng trung bình, chừng
35,000 đôla một năm. Ðứng hàng thứ nhì là người Phi Luật Tân.
Tất
cả các di dân gốc Á Châu có số năm học chính thức trung bình cao hơn người Mỹ
gốc da trắng, trừ người gốc Việt. Người gốc Việt Nam có lợi tức thấp hơn cả và số
năm học chính thức ngắn hơn so với các sắc dân Châu Á khác, cũng như người gốc
Hàn Quốc. Lợi tức bình quân những di dân Nhật Bản và Trung Hoa nằm vào khoảng
giữa hai nhóm trên.
Lép
vế
Người
gốc Việt Nam có thể coi là ngang hàng, vì lợi tức bình quân chỉ kém người Mỹ da
trắng khoảng 300 đôla một năm, và số người tốt nghiệp đại học cũng chỉ thấp hơn
2% mà thôi."
Nhiều
chỉ số xã hội kinh tế khác cho thấy người Việt Nam lép vế. Ðó là sắc dân có tỷ lệ
thất nghiệp cao hơn cả, tỷ lệ số người sống dưới mức nghèo cao hơn, và tỷ số
người nhận trợ cấp xã hội cũng cao hơn các sắc dân Châu Á khác. Tuy lợi tức
thấp nhất trong nhóm này nhưng người Việt trung bình cũng xấp xỉ bằng người Mỹ
gốc da trắng mà không gốc nói tiếng Tây Ban Nha. Hai tác giả bài nghiên cứu
giải thích tình trạng kinh tế xã hội thấp của người Việt Nam là vì đại
đa số họ là những người tị nạn chính trị chứ không phải di dân bình thường.
Người
Việt Nam
có lẽ hiểu rõ tình trạng này hơn. Hàng triệu người Việt sang nước Mỹ và các
nước Tây phương với hai bàn tay trắng. Không riêng gì những thuyền nhân chạy
trốn cộng sản từ 1975 cho đến 1990, ngay cả các người sang Mỹ đoàn tụ hoặc định
cư với lý do nhân đạo (HO) cũng tới Mỹ để bắt đầu cuộc đời mới. Những di dân tị
nạn này tới nước Mỹ khi đã lớn tuổi, từ 50 tuổi trở lên, và nhiều người không
nói một tiếng Anh; nếu may mắn lắm thì họ cũng chỉ kiếm được những việc làm
lương thấp.
Ðiều
khiến nhiều người Việt kinh ngạc là tại sao số năm học của di dân gốc Việt lại
thấp hơn các sắc dân Châu Á khác? Bởi vì muốn so sánh trình độ học vấn cho đúng
nhất thì phải so sánh giữa các người gốc Châu Á thuộc thế hệ thứ hai trở đi. Số
người Việt và người Hàn Quốc sinh ở nước tổ cao hơn cho thấy đa số là các di
dân đời thứ nhất.
Nói
chung, người gốc Châu Á có lợi tức và số năm học cao hơn người Mỹ da trắng
trung bình. Hai sắc dân có trình độ học vấn cao nhất là Ấn Ðộ và Phi Luật Tân.
Chúng ta biết rằng đại đa số người gốc Ấn Ðộ sang Mỹ sau khi đã tốt nghiệp đại
học bên xứ họ, vì nước Ấn Ðộ sản xuất nhiều kỹ sư hơn khả năng tiếp nhận của
công nghiệp nước họ; những người Ấn Ðộ học thấp hơn bậc đại học có thể là vợ
con, cha mẹ của các di dân này. Ða số người Phi Luật Tân được di cư sang Mỹ vì
họ làm những nghề mà dân Mỹ đang thiếu. Họ là các y tá, chuyên môn săn sóc
người già và người bệnh. Những nghề đó đều đòi hỏi bằng cấp bậc đại học. Vì số
người đó chiếm đa số cho nên họ cũng nâng số lợi tức trung bình của tất cả các di
dân gốc Phi Luật Tân. Mặt khác, số người gốc Phi Luật Tân ở Mỹ tụ tập ở quần
đảo Hawaii
rất đông; và họ đã tới nơi này từ nhiều đời. Do đó, nếu tài sản và lợi tức bình
quân của họ cao hơn các sắc dân khác cũng dễ hiểu. Các sắc dân như Trung Hoa,
Hàn Quốc và Nhật Bản thì đa số cũng đến vùng đất mới này sớm hơn cộng đồng
người gốc Việt và họ ra đi với họ được chuẩn bị về cả nghề nghiệp và vốn liếng
trước khi ra đi; khác với những người liều chết ra biển đi tìm tự do.
Cuối
cùng, bài nghiên cứu của John R. Logan và Weiwei Zhang kết luận rằng người di
dân gốc Châu Á ở Mỹ có thể coi là ngang hàng, hoặc có trình độ cao những người
Mỹ tới khai phá đất này sớm nhất, là những người gốc da trắng. Người gốc Việt
Nam có thể coi là ngang hàng, vì lợi tức bình quân chỉ kém người Mỹ da trắng
khoảng 300 đôla một năm, và số người tốt nghiệp đại học cũng chỉ thấp hơn 2% mà
thôi. Với tất cả những thiệt thòi của những người chạy khỏi quê hương đi tị
nạn, tình trạng đó cũng đáng coi là một điều đáng hãnh diện.
Ngô
Nhân Dụng