
Ngày 27/5 vừa qua,
trên mạng xã hội, nhiều người đã đăng lời chúc mừng sinh nhật gửi tới tù nhân
Phạm Đoan Trang.
Trước đó vài tuần, một
tù nhân nổi tiếng khác là Trịnh Bá Phương đã
bị khởi tố thêm tội danh "tuyên truyền chống Nhà nước" khi đang ở tù.
Những dòng tin này
nhắc nhở rằng tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là những vấn đề nhức nhối tại
Việt Nam, 50 năm sau khi cuộc chiến kết thúc.
Trại tù, cải tạo thời
hậu chiến
Chiều ngày 29/4/1975
tôi theo gia đình người anh con bác rời Việt Nam bằng tàu. Ba tháng sau được định
cư ở California.
Đầu năm 1976, chúng
tôi nhận được lá thư đầu tiên từ quê nhà, gửi qua người bạn ở Nhật nhờ chuyển lại
vì liên lạc bưu chính giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã bị cắt đứt sau ngày 30/4/1975.
Thư đem tin vui là
người thân không có ai chết trong những ngày sau cùng của cuộc chiến. Tin buồn
là bố của các anh chị, anh của mẹ tôi, là trung úy cảnh sát, đã đi học tập cải
tạo nửa năm rồi mà nhà không biết giam ở đâu và bao giờ mới được về.
Những thư sau có tin
nhiều bà con của gia đình và những người hàng xóm cũng đã đi học tập cải tạo cả
năm rồi mà chưa thấy về.
Mùa thu 1977 tôi được
nhận vào Đại học U.C. Berkeley. Ở đây tôi gặp bà Laola Hironaka, sinh viên ban
tiến sĩ ngành Á châu học và cũng là trưởng nhóm của Amnesty International –
Campus Network (Ân xá Quốc tế - Mạng lưới Đại học). Bà quan tâm đến tình hình
Việt Nam sau năm 1975 và muốn tìm hiểu về các trại học tập cải tạo giam
giữ cựu quân cán chính của Việt Nam Cộng hòa.
Khi còn ở quê nhà
tôi đã biết Ân xá Quốc tế thường lên tiếng yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng
hòa trả tự do cho những thanh niên, sinh viên tranh đấu bị giam tù như Huỳnh Tấn
Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Đoàn Văn Toại. Nay tổ chức này tiếp tục can thiệp cho
tù chính trị tại Việt Nam nên tôi tham gia sinh hoạt vì tin rằng sau chiến
tranh người Việt cần có tự do để đóng góp cho quê hương.
Trong những buổi
sinh hoạt, tôi chia sẻ thông tin về bác tôi, về những người thân quen còn trong
trại học tập, về văn nghệ sĩ đang bị cầm tù và tin tức về đời sống quê nhà dưới
chế độ cộng sản qua những lá thư gia đình.
Nhân quyền tại Việt
Nam được thế giới chú ý khi ca sĩ Joan Baez đã cùng 80 trí thức, văn nghệ sĩ Mỹ
ký tên vào một thư ngỏ gửi cho Hà Nội, đăng ngày 30/5/1979 trên 5 nhật báo lớn
tại Hoa Kỳ, kêu gọi lãnh đạo Việt Nam tôn trọng nhân quyền vì đang giam giữ mà
không xét xử hàng trăm nghìn quân nhân, công chức chế độ Việt Nam Cộng hòa và
nhiều văn nghệ sĩ.
Ca sĩ Joan Baez và lãnh đạo của Ân xá Quốc tế là bà Ginetta Sagan đã gặp nhiều cựu tù nhân bị giam sau ngày 30/4/1975 và đã thoát khỏi Việt Nam, trong đó có Đoàn Văn Toại, cựu lãnh đạo của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn; nhà văn Nguyễn Hữu Hiệu, bác sĩ Trần Xuân Ninh.
Tháng 11/1979, AI
Campus Network và Hội Sinh viên Việt Nam, mà tôi là thành viên trong ban chấp
hành, tổ chức biểu tình tại Sproul Plaza, Đại học Berkeley là nơi nổi tiếng với
những cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam trong quá khứ. Hàng nghìn sinh
viên đã đến nghe cựu tù nhân-bác sĩ Trần Xuân Ninh, ca sĩ Joan Baez, giáo sư
chính trị học Karl Jackson, nhà thần học William Buckley nói chuyện về một nước
Việt Nam hết chiến tranh nhưng thiếu nhân quyền nên nhiều người Việt phải bỏ nước
vượt biển ra đi.
Tôi đã cùng bà Laola
Hironaka xuống miền Nam California tiếp xúc với những nhà văn, nhà báo, quan chức
cũ của Việt Nam Cộng hòa để tìm hiểu về trại tù cải tạo, về những vụ bắt giam
văn nghệ sĩ. Chúng tôi gặp nhà văn Võ Phiến, nhà văn kiêm đạo diễn Đỗ Tiến Đức,
bà dân biểu Nguyễn Thị Hai, gia đình cố dược sĩ Nguyễn Cao Thăng.
Ngoài hàng trăm nghìn người bị giam trong các trại học tập cải tạo còn có nhiều trí thức văn nghệ sĩ bị giam tù như vợ chồng nhà văn Nhã Ca và thi sĩ Trần Dạ Từ, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương, là những tác giả tôi thích đọc khi còn ở quê nhà.
Năm 1980, sinh hoạt
văn học của người Việt hải ngoại sôi nổi lên với tập thơ của Ngục Sĩ, là một
thi sĩ miền Bắc đã bị giam tù nhiều năm vì làm thơ chỉ trích Đảng Cộng sản và
chế độ Hà Nội. Tác giả từng bị cầm tù vài lần, đến năm 1979, ông đã chạy vào sứ
quán Anh để nhờ chuyển tập thơ ra nước ngoài, kết cục là ông lại bị bắt và kết
án nhiều năm tù. Phạm Duy phổ thơ của ông thành 10 bài ngục ca.
Năm 1981, dịp tưởng
niệm ngày 30/4, Hội Sinh viên Việt Nam tại Đại học Berkeley đã tổ chức một đêm
đọc thơ Tiếng vọng từ đáy vực, hát Ngục ca và sinh viên đã mời một
số cựu tù cải tạo đến nói chuyện về đời sống trại tù.
Cùng năm, Trung tâm
Nghiên cứu Đông Á (Institute of East Asian Studies) của trường cho xuất bản
sách After Saigon Fell (Sau ngày Sài Gòn thất thủ) của Nguyễn Long, một
cựu sinh viên Đại học Berkeley, tốt nghiệp bằng tiến sĩ chính trị học năm 1973,
về nước làm giám đốc học vụ của Đại học Vạn Hạnh. Sau năm 1975, các đại học tư
đóng cửa, đầu năm 1979, ông vượt biển và được định cư tại Mỹ.
Tác giả ghi lại sự
kiểm soát chặt chẽ của công an qua chính sách hộ khẩu. Người dân không được tự
do lưu trú, ra khỏi địa phương phải có giấy phép tạm trú, tạm vắng. Việc vận
chuyển hàng hóa, thực phẩm cũng phải có giấy phép của nhà nước. Sài Gòn không
còn biểu tình như trước. Tác giả từng có cảm tình với Mặt trận Giải phóng Miền
Nam, ở lại sau ngày 30/4/75, ông mới nhận ra bộ mặt thực của cộng sản và quyết
định vượt biển vào năm 1979.
Sau khi bà Laola
Hironaka rời trường, năm 1982, tôi gặp Steve Denney, thành viên của
Amnesty International – Nhóm 64, phụ trách về Đông Nam Á. Thời sinh viên ở Đại
học Oregon, Steve từng tham gia phong trào chống chiến tranh và lúc bấy giờ
đang quan tâm đến nhân quyền tại Việt Nam. Anh làm phụ tá cho ông Douglas Pike,
Giám đốc Indochina Archive tại Đại học Berkeley.
Steve làm chủ biên tập
san nhân quyền Indochina Journal mà tôi đã cộng tác với anh, mỗi số
phát hành được gửi đến các vị dân cử Mỹ trong các ủy ban về châu Á tại Quốc hội,
các giáo sư đại học chuyên ngành Đông Nam Á, các cơ quan từ thiện hoạt động tại
Việt Nam và những ai quan tâm đến Việt Nam.
Khi có diễn giả đến
trường nói chuyện về Việt Nam thời hậu chiến, như Don Luce, John Spragen,
Christine White, Steve đã cùng sinh viên chất vấn diễn giả về trại học tập cải
tạo, về việc bắt giam các lãnh đạo tôn giáo, văn nghệ sĩ, thành phần trí thức.
Amnesty
International và Human Rights Watch (tổ chức Theo dõi Nhân quyền) trong các báo
cáo đã lên tiếng về vi phạm nhân quyền của Hà Nội.
Lãnh đạo của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất là các nhà sư Thích Huyền Quang và Thích Quảng
Độ bị Hà Nội chỉ định quản chế. Giáo hội này bị cấm từ năm 1981, khi nhà
nước cho thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam trực thuộc Mặt trận Tổ quốc, tu
sĩ bị ép buộc tham gia, nhiều người phản đối đã bị quấy nhiễu hay lãnh án tù.
Các nhà sư Thích
Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu, những học giả uyên bác về Phật học, đã bị nhà nước
kết án tử hình với tội danh hoạt động "lật đổ chính quyền nhân dân"
sau khi bị bắt vào năm 1984, mà các tổ chức nhân quyền quốc tế đều cho là Hà Nội
áp đặt nhằm tiêu diệt những tu sĩ không theo giáo hội do nhà nước lập ra. Với sự
lên tiếng can thiệp của thế giới, Hà Nội đã giảm án xuống còn 20 năm tù.
Công giáo cũng chung
số phận với nhiều tu sĩ bị quản chế dài hạn hay giam tù như Giám mục Nguyễn Văn
Thuận, các linh mục Trần Hữu Thanh, Đinh Bình Định, Nguyễn Công Đoàn, Nguyễn
Văn Lý.
Tin lành có mục sư Nguyễn Tự Cường bị án tù 10 năm tù.
Nhiều tu sĩ đã chết
trong tù, trong đó có Hòa thượng Thích Thiện Minh, Linh mục Vũ Khánh Tường.
Cuối năm 1986, Đại hội
6 Đảng Cộng sản đưa ra chính sách Đổi mới, chuyển kinh tế tập trung sang tự do
kinh doanh nhiều thành phần. Việt Nam mở cửa đón du khách phương Tây. Dân được
tự do buôn bán và những nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu
tư. Đời sống của dân trở nên khá hơn vì được tự do kinh doanh.
Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh cho "cởi trói văn nghệ" nên văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm
được thế giới biết đến: Dương Thu Hương với Những thiên đường mù,
Trần Mạnh Hảo với Ly thân, Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu, Bảo
Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Trần Văn Thủy với phim Chuyện tử tế.
Vài năm sau, tự do
sáng tác bị xiết lại trước làn sóng dân chủ hóa ở Đông Âu mà Hà Nội
lo sợ sẽ lan đến Việt Nam.
Nhà văn Dương Thu Hương, một người lên tiếng chỉ trích nhà nước, đã bị bắt vào tháng 4/1991 với cáo buộc chuyển bí mật nhà nước ra hải ngoại mà thực tế là bản thảo Tiểu thuyết vô đề của bà. Sau nhiều tháng bị giam, bà đã được thả ra mà không hề qua xét xử.
Những ai lên tiếng
đòi cải cách chính trị, mở rộng không gian thảo luận về những vấn đề của đất nước
đều bị trấn áp hay bỏ tù.
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
sáng lập Cao trào Nhân bản vào ngày 11/5/1990 thì chỉ một tháng sau đã bị công
an bắt giam và sau đó bị kết án tù 20 năm.
Luật sư Đoàn Thanh
Liêm bị bắt sau khi gặp gỡ những người Mỹ để tham vấn cho họ trong việc mở công
ty tại Việt Nam, nhưng lý do chính cho việc bắt giữ là việc ông kêu gọi tự do
tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ông bị kết án tù 12 năm với tội danh liên quan đến
"tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa".
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt
bị bắt vào tháng 11/1990 khi cho xuất bản tờ báo chui Diễn đàn Tự do với những
bài viết kêu gọi tự do dân chủ cho Việt Nam và bị kết án 20 năm tù, cùng với
các cộng sự Phạm Đức Khâm bị án tù 16 năm và Nguyễn Văn Thuận 12 năm.
Trước làn sóng dân
chủ ở Đông Âu, Bộ trưởng Công an Bùi Thiện Ngộ trong bài viết Một số vấn đề
chiến lược An ninh Quốc gia trong giai đoạn mới trên Tạp chí Cộng sản đã
đưa ra lời cảnh báo rằng sau cuộc cách mạng nhung 1989 ở Đông Âu, kẻ thù của Việt
Nam, trong và ngoài nước, đang nắm lấy cơ hội để đòi đổi mới chính trị theo kế
hoạch "diễn biến hòa bình", vận động cho đa nguyên, đa đảng nhằm chấm
dứt sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đã có những nhân vật
cấp cao lên tiếng đòi dân chủ hóa đất nước như Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân
Bách, Trung tướng Trần Độ, Giáo sư Phan Đình Diệu.
Trung tướng Trần Độ muốn
có một xã hội đa nguyên, không độc quyền theo một chủ thuyết và lãnh đạo phải
thật sự là của dân, do dân và vì dân.
Những đề xướng của
Trung tướng Trần Độ, cựu Thứ trưởng Bộ Văn hóa và cũng là Phó Chủ tịch Quốc hội,
đã không được Bộ Chính trị đồng tình. Ông đã bị trù dập, bị khai trừ đảng vào
năm 1999. Khi qua đời, đám tang của ông còn bị an ninh quấy nhiễu.
Lên tiếng trong kỷ
nguyên internet
Đầu thiên niên kỷ, khi mạng thông tin toàn cầu trở nên phổ biến thì công an bắt đầu trấn áp và giam giữ những ai dùng internet để phát tán những tài liệu, thông tin về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.
Theo Amnesty
International và Human Rights Watch, nhiều người dùng internet để vận động cho
nhân quyền đã bị giam tù.
Lê Chí Quang, 32 tuổi,
bị bắt tại một quán cà phê ở Hà Nội vào tháng 2/2002. Ông đã phát tán trên mạng
thông tin lên án nhà nước ký hiệp ước biên giới với Trung Quốc và bị kết án 4
năm tù về tội "tuyên truyền chống nhà nước."
Doanh nhân Nguyễn Khắc
Toàn, 48 tuổi, bị bắt vào tháng 1/2002 vì đã dùng internet để chuyển ra nước
ngoài những thông tin về các cuộc biểu tình của nông dân phản đối nhà nước thu
hồi đất. Ông bị kết án 12 năm tù.
Luật sư Nguyễn
Văn Đài và luật sư Lê Thị Công Nhân năm 2007 bị kết án tù vì lên
tiếng cho tự do tôn giáo. Luật sư Lê Quốc Quân lãnh án tù 30 tháng vì
hoạt động "nhằm lật đổ chế độ". Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy bị
kết án tù 3 năm vì làm báo "chui" Tổ quốc và là thành viên
của Khối 8406, một tổ chức vận động cho dân chủ.
Năm 2012, "Điếu
Cày" Nguyễn Văn Hải, cựu bộ đội Quân đội Nhân dân Việt Nam, bị kết án 12
năm tù với tội "tuyên truyền chống nhà nước."
Năm 2014, "Anh Ba Sàm" Nguyễn Hữu Vinh, sinh năm 1956, cựu sĩ quan an ninh, bị kết án 5 năm tù khi cho đăng trên Blog Anh Ba Sàm, có hàng vạn người vào đọc mỗi ngày, những thông tin, bình luận từ quốc nội và quốc tế liên quan đến Việt Nam.
Từ năm 2000, những
người lên tiếng phản kháng chế độ gồm nhiều người sinh ra và lớn lên ở miền Bắc
Việt Nam. Sau nhiều thập niên sống dưới chế độ cộng sản, họ cũng đã nhận ra những
bất công và sự thiếu tự do dân chủ trên quê hương.
Không chỉ những người
tranh đấu cho công bằng xã hội, cho dân oan mà nhà báo, nghệ sĩ cũng bị bắt
giam. Việt Khang Võ Minh Trí, 34 tuổi, bị kết án tù về tội danh
"Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" theo
Điều 88 của Bộ luật Hình sự 1999 khi sáng tác các ca khúc kêu gọi nhà nước trả
lại cho dân những quyền tự do căn bản.
Ngày 14/12/2021, Phạm Đoan Trang, sinh năm 1978, nhà báo, người làm xuất bản sách, cũng bị cáo buộc vi phạm Điều 88 vì "Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" và bị kết án 9 năm tù. Bà là đồng sáng lập viên của Luật Khoa tạp chí và tác giả của nhiều tác phẩm về xã hội và nhà tù ở Việt Nam.
Phạm Đoan Trang muốn
"khai dân trí" qua nhiều tác phẩm, điển hình như Chính trị bình
dân, Phản kháng phi bạo lực, Cẩm nang nuôi tù để người dân hiểu
được những quyền căn bản của mình.
Đầu năm 2025, nhà
báo Huy Đức Trương Huy San cũng bị buộc tội theo Điều 331 và bị kết án 30
tháng tù.
Luật hình sự của Việt
Nam ngày nay vẫn còn những điều luật không rõ ràng và tùy tiện, cho phép nhà nước
giải thích và áp đặt để giam tù những ai lên tiếng trong ôn hòa chỉ trích các
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều 109 về âm mưu lật đổ chính quyền
nhân dân; Điều 117 về tuyên truyền chống nhà nước; Điều 331 về lợi dụng quyền tự
do dân chủ xâm phạm quyền, lợi ích của nhà nước, tổ chức hay cá nhân.
Năm mươi năm sau
ngày chiến tranh kết thúc, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, người dân vẫn chưa có đầy đủ các quyền căn bản như tự do biểu đạt, tự
do hội họp, lập hội, ứng cử dù Việt Nam đã phê chuẩn các công ước của Liên Hợp
Quốc về các quyền dân sự và chính trị.
Báo cáo năm 2023 của
Bộ Ngoại giao Mỹ ghi nhận Việt Nam hiện còn giam giữ ít nhất 187 tù nhân hoạt động
cho nhân quyền.
Tổ chức Freedom
House năm 2024 đặt Việt Nam vào nhóm quốc gia không có tự do, với số điểm 4/40
cho tự do chính trị và 15/60 cho những quyền tự do dân sự.
Ủy ban Nhân quyền
Tom Lantos của Quốc hội Hoa Kỳ có nhiều dân biểu đứng ra bảo trợ cho những tù
nhân lương tâm tại Việt Nam và thường xuyên đưa vấn đề vi phạm nhân quyền của
Hà Nội ra trước diễn đàn Quốc hội.
Năm 1994, được Quốc
hội đồng thuận và Tổng thống Bill Clinton ký thành luật chọn ngày 11/5 hằng năm
là Ngày Nhân quyền cho Việt Nam. Ngày này năm 1990, bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã
khai sinh ra Cao trào Nhân bản khiến ông bị giam tù nhiều năm.
Năm 2023, lập pháp
viện tiểu bang California, nơi có đông người Việt sinh sống, cũng đã chọn ngày
11/5 là Ngày Nhân quyền cho Việt Nam.
Trong cuộc phỏng vấn
với bác sĩ Trần Xuân Ninh vào năm 1979 khi ông đến Đại học Berkeley nói chuyện,
tôi đã đặt câu hỏi là người Việt hải ngoại có thể làm gì để giúp cải tiến nhân
quyền trên quê hương, ông trả lời:
"Những người đi
từ năm 1975 hay đi sau này mà còn thương những người ở nhà thì còn phải lên tiếng
mạnh mẽ, đánh động thế giới, buộc lương tâm họ phải thức giấc và chú ý đến Việt
Nam nhiều hơn nữa, nhất là quan tâm đến bản chất tàn ác của chế độ Hà Nội và những
vi phạm nhân quyền của chế độ ấy… Áp lực như thế tối thiểu mình đã giúp đỡ dân
tộc bớt đi phần nào những đau khổ hàng ngày." (Bán nguyệt san Việt
Nam Hải Ngoại số 85, 1-15/12/1980)
Tháng 2/2025, cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Bắc Truyển từ Đức đến San Jose, California nói chuyện về tình hình nhân quyền Việt Nam.
Ông Truyển tranh đấu
cho tự do tôn giáo, cho quyền của người dân tộc thiểu số và đã bị kết án nhiều
năm tù, với tội "tuyên truyền chống nhà nước" và "âm mưu lật đổ
chính quyền nhân dân". Nhờ can thiệp của quốc tế, ông và vợ đã được Đức
nhận cho tị nạn vào tháng 9/2023. Ông Truyển cho biết có nhiều người bị tù
vì lên tiếng phản biện chính sách của nhà nước, con số có thể là hàng nghìn,
cao hơn nhiều so với những con số vài trăm do các tổ chức nhân quyền đưa ra.
Hỏi ông người Việt hải
ngoại có thể làm gì giúp cho những tù nhân lương tâm, ông nói: "Những người
còn trong tù ở Việt Nam rất hy vọng và khích lệ khi biết rằng nhân dân trên thế
giới không quên họ. Sự quan tâm của chúng ta sẽ giúp họ trải qua những ngày khó
khăn, đem lại hy vọng họ sẽ được trả tự do và tiếp tục tranh đấu cho những quyền
căn bản của dân tộc Việt Nam."
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.