
Những bức ảnh màu do
Ronald Haeberle chụp đã phơi bày sự thật về vụ thảm sát Mỹ Lai tháng 3/1968, thổi
bùng làn sóng phản chiến tại Mỹ và góp phần thay đổi cục diện Chiến tranh Việt
Nam.
Ronald Haeberle, một
phóng viên ảnh của quân đội Mỹ, đã có mặt và chứng kiến vụ thảm sát Sơn Mỹ -
còn gọi là thảm sát Mỹ Lai - vào ngày 16/3/1968, khi đó ông 27 tuổi.
Đã gần 60 năm trôi
qua nhưng những gì xảy ra tại Sơn Mỹ (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi,
tỉnh Quảng Ngãi) trong bốn tiếng đồng hồ hôm đó vẫn không bao giờ mờ đi trong
ký ức của Haeberle.
Do công bố những bức
ảnh chấn động đó mà Ronald đã bị cho là kẻ phản bội quân đội Mỹ - nơi ông phục
vụ.
"Tôi tự rửa
phim. Tự chọn ảnh. Tôi cứ nhìn chúng, cố tìm hiểu tại sao – từng chút một. Từng
chi tiết nhỏ về ngày hôm đó lần lượt ùa về nhờ những bức ảnh. Và bụng tôi nhộn
nhạo, trào lên cảm giác kinh tởm. Tại sao? Tôi tự hỏi chính mình. Tôi muốn biết
lý do."
"Tôi muốn cho người dân Mỹ biết chính xác những gì đã xảy ra ngày hôm đó. Và đó là cách tôi phản đối chiến tranh trong im lặng. Tôi cũng muốn để họ nghe những câu chuyện khác từ những người lính, về các bức ảnh chụp cảnh giết chóc ấy," ông Haeberle, nay đã 84 tuổi.
Cuộc xả súng kinh hoàng
Vào rạng sáng ngày
16/3/1968, Haeberle được tin có một chiến dịch truy quét lính Việt Cộng diễn ra
và sẽ là một trận đánh lớn. Với óc tò mò và máu nghề của một phóng viên chiến
trường, ông đã tự nguyện tham gia cùng Đại đội Charlie. Bên cạnh đó còn có
trung sĩ, phóng viên của Phòng Thông tin Công cộng thuộc Lữ đoàn 11 - Jay
Roberts.
"Tôi được giao
nhiệm vụ chụp ảnh ngày hôm đó và chúng tôi nghĩ mình sẽ chạm trán với Tiểu đoàn
48 của Việt Cộng. Tôi thuộc chuyến đổ quân thứ hai và nhập nhóm với Đại đội
Charlie, chuyến bay chỉ chừng 10-15 phút và tôi nghe qua radio là chiến trường
đang "rất nóng".
"Nghĩa là giao
tranh rất ác liệt, chúng tôi nghe được tiếng súng xen lẫn tiếng cánh quạt vù vù
của máy bay. Ngay khi hạ cánh, tôi nghe vẫn thấy tiếng đạn nã liên hồi không ngớt.
"Chúng tôi nhảy xuống một cánh đồng từ trực thăng và cúi rạp người trong vài phút đầu. Nhưng tiếng súng vẫn nổ rất dữ dội. Lúc sau, tôi nhận ra không có viên đạn nào bắn về phía chúng tôi, không có phát súng nào bắn từ trong làng ra," ông Haeberle kể lại.
Sau đó, ông cùng nhà
báo Jay Roberts được phân vào Trung đội 3 để tiến xuống đường lộ 521 (đường
làng Sơn Mỹ). Lúc đó tầm 9 giờ sáng, khi chỉ mới đến rìa làng thì cả hai đã chứng
kiến lính Mỹ nã đạn không ngớt vào thường dân, những người mặc đồ bà ba đang đi
trên đường, đang làm ruộng.
Trên đường đến địa
điểm được chỉ định, cả hai chứng kiến liên tiếp những vụ tàn sát bừa bãi với nạn
nhân là thường dân.
"Họ không phải
là du kích cộng sản, chỉ là phụ nữ và trẻ em. Sau đó, chúng tôi lại chứng kiến
những vụ giết chóc vô tội vạ, cho đến khi gần tới rìa ngôi làng, tôi nhìn thấy
Đại úy Ernest Medina, chỉ huy Đại đội Charlie."
"Chúng tôi cố
tiến lại để nói với ông về vụ tàn sát và hỏi vì sao lại như vậy. Tôi còn nhớ
lúc đó có một trung sĩ người Việt tên là Minh, anh ấy đã rất đau lòng và giận dữ.
Anh ấy cũng muốn tới để hỏi Đại úy Medina tại sao lại giết dân, tại sao lại tàn
sát người Việt.
"Nhưng Đại úy Medina đang bận chỉ huy trên bộ đàm nên chúng tôi không thể nói chuyện được đành phải tự nhủ sẽ kiếm ông ta sau," Haeberle kể lại.
Khi đi qua ngôi
làng, ông nhìn thấy những túp lều bằng tranh bị đốt phá, những xác người phơi trên
đường, trên đồng ruộng.
"Có một hình ảnh
tôi còn nhớ, đó là một lính Mỹ nhảy lên lưng một con trâu rồi rút lưỡi lê ra, vừa
cưỡi vừa đâm con vật ấy. Tôi không bao giờ quên lời bình luận của Jay ngay sát
bên cạnh: 'Thật ghê rợn, mấy con trâu này thật lì đòn.'
"Tình cảnh rất
rối ren, rất siêu thực, tôi không thể tin được những gì mình đang chứng kiến, cả
hai chúng tôi đều bị sốc. Chúng tôi cố gắng lý giải điều gì đang xảy ra. Người
chết như rạ trên đường là các bà, các mẹ, những đứa trẻ," Haeberle nhắm mắt
hồi tưởng.
Nhưng đó không phải
là hình ảnh kinh hoàng nhất buổi sáng 16/3/1968.
Haeberle cầm theo
hai chiếc máy ảnh khi tác nghiệp ngày hôm đó, một chiếc Leica của quân đội cấp
và một chiếc Nikon F của riêng ông. Ông đã chụp tổng cộng 60 bức hình, ghi lại
diễn biến của cuộc tàn sát, trong đó, 18 tấm có màu sau này được công bố là từ
chiếc máy Nikon của ông.
Trong số này, có một tấm ảnh chụp một người phụ nữ lớn tuổi bận đồ bà ba, gương mặt mếu máo, người co rúm đang đứng dưới một bụi tre. Một cô gái nấp phía sau ôm chặt bà cụ. Cạnh bên là những đứa trẻ được bồng hoặc đang ôm chặt lấy người lớn, nét mặt hốt hoảng.
Sau khi bức ảnh được chụp, tất cả những người này đều bị giết.
Và rồi toán lính Mỹ
lùi lại để ông tiến lên chụp ảnh, ông cũng nghe rõ ràng lệnh ngừng xả súng nên
ông cứ tưởng nhóm người này sẽ không sao.
"Nhưng chúng
tôi vừa rời đi, hai khẩu M-16 tự động đã nổ – họ giết sạch nhóm người đó. Sau
này tôi biết được có một đứa trẻ còn sống sót, nó bò qua những xác người để tìm
mẹ và rồi cũng bị bắn chết. Quá kinh khủng, họ chỉ toàn phụ nữ và trẻ em, không
có bóng dáng lính cộng sản, không có cuộc đọ súng nào."
Cụm từ "giết bất cứ thứ gì còn cựa quậy" đã trở thành mệnh lệnh được thốt ra từ miệng một số chỉ huy Mỹ trong chiến tranh, những người đã chỉ đạo thuộc cấp tiến hành các cuộc thảm sát trong khu vực họ kiểm soát, không chỉ ở Sơn Mỹ mà còn ở Bến Tre, Quảng Trị và nhiều nơi khác trong suốt cuộc chiến.
'Tìm và diệt'
Vụ thảm sát Mỹ Lai
này do Đại đội Charlie thuộc Tiểu đoàn số 1, Trung đoàn bộ binh số 20, Lữ đoàn
bộ binh số 11, Sư đoàn bộ binh số 23 của Lục quân Hoa Kỳ gây ra.
Trên bản đồ quân sự,
Mỹ Lai 1 cùng các thôn lân cận như Mỹ Lai 2, 3 và 4 đều thuộc xã Sơn Mỹ, một
khu vực đông dân cư với hàng chục xóm làng, được tô màu đỏ do mật độ dân số cao
- từ đó có tên gọi "Pinkville" (Làng Hồng). Họ tiến vào Pinkville để
thực hiện chiến dịch "tìm và diệt", khu vực này khi đó được tuyên bố
là vùng được phép nổ súng tự do (free fire zone).
Haeberle nói rằng
thông tin lính Việt Cộng ẩn náu trong làng là sai, nhưng rốt cuộc thì điều đó
chẳng còn quan trọng.
Cho đến nay, vẫn còn
nhiều nguồn khác nhau đưa các con số khác nhau về số nạn nhân của vụ thảm sát.
"Không có Việt
Cộng, chỉ thấy phụ nữ mang thai, trẻ con. Đó là địch à? Đó là Tiểu đoàn 48 Việt
Cộng sao? Không. Thật đau lòng, 504 thường dân bị giết.
"Trong đó, theo
số liệu tôi có được, Mỹ Lai: 392 người, Bình Tây: 15 người đều do Đại đội
Charlie thực hiện. Mỹ Khê: 97 người, do Đại đội Bravo. Có 182 phụ nữ, trong đó
có 17 thai phụ, hơn 170 trẻ em."
"Tôi nghĩ họ
làm vậy là vì một điều thôi: trả thù. Khi Đại đội Charlie mới đến Việt Nam, họ
đã mất 1/4 lực lượng trong các chiến dịch do bị dính mìn, bị bắn tỉa mà không
giết được ai, và vì thế, không có thành tích. Mà trong chiến tranh, thành tích
dựa trên việc đếm xác - quan trọng là giết được bao nhiêu người."
Lính Mỹ tham chiến ở
Việt Nam với khẩu hiệu là "giành lấy trái tim và khối óc" nhưng thực
chất họ gần như chỉ tập trung vào một thước đo duy nhất để đánh giá thành công
tại Việt Nam: số xác kẻ thù trong giao tranh. Phương pháp body
count (đếm xác) này là một chỉ số gây tranh cãi gắn liền với tên tuổi với Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara.
Haeberle kể rằng khi
mới đến Việt Nam vào năm 1967, Đại đội Charlie cũng thân thiện, hòa nhã với dân
làng nhưng rồi họ mất dần đồng đội nên họ trở nên chai sạn, thù hằn với dân
làng vì không thực sự biết kẻ địch là ai.
Theo thống kê, Đại đội
Charlie đã mất khoảng 28 người và chỉ còn chừng 100 người dù chưa có cuộc chạm
trán nào.
"Ngày 16/3, một
nhóm lính đi trúng bãi mìn và họ mất đi viên trung sĩ mà họ yêu quý nhất. Tất cả
thù hận dồn nén trong lòng những người lính ấy," ông Haeberle nói.
Haeberle cũng kể
thêm, chính Đại tướng William Childs Westmoreland - Tổng chỉ huy quân đội Hoa Kỳ
tại Việt Nam - từng phát biểu rằng người Việt Nam không phải là con người,
không có cảm xúc. Sự tuyên truyền mang tính từ trên xuống này có lẽ đã giúp
lính Mỹ "xuống tay" dễ dàng hơn.
Sau khi thực hiện
xong cuộc "tìm và diệt" ở Mỹ Lai, Đại úy Medina được lệnh quay lại kiểm
đếm chính xác số người chết nhưng ông ta đã không làm.
"Khi ấy đã quá
muộn nên họ để thi thể nằm ở đó. Lính Mỹ rút đi mà không có sự chôn cất
nào," ông Haeberle thuật lại.
Lúc trở về đơn vị,
Ronald Haeberle và Jay Robert đã thống nhất với nhau rằng sẽ kể lại toàn bộ sự
việc ngày hôm đó, không chút giấu diếm nếu có bất kì cuộc điều tra xảy ra.
"Nhưng chúng tôi không muốn là người đầu tiên phơi bày câu chuyện. Nếu làm vậy, chúng tôi coi như xong đời ở Việt Nam," Haeberle nói.
Những bức ảnh thay đổi cuộc chiến tranh
Mãi hơn một năm sau,
lúc đó Haeberle đã về lại Mỹ thì ông mới ghép được những mẫu khác của bức tranh
ngày hôm đó.
Vào tháng 8/1969, có
một nhóm điều tra từ Cục Điều tra Hình sự (CID) của quân đội đến tìm ông vì biết
có một phóng viên ảnh đã làm nhiệm vụ ngày hôm đó.
Haeberle đồng ý cung
cấp những bức ảnh màu mà ông đã chụp để phục vụ điều tra, nếu được biết chuyện
gì thực sự xảy ra ngày 16/3/1968.
"Những gì thanh
tra trưởng nói vượt xa sức tưởng tượng của tôi. Các bé gái, phụ nữ bị hãm hiếp
tập thể, bị bắn chết rồi bị rạch vùng kín, cắt xẻo bộ phận cơ thể người. Những
gì ông ta kể khiến tôi cảm thấy kinh tởm và làm tôi đau lòng hơn.
"Thực sự kinh
hoàng. Tôi không thể nào chịu nổi những điều mình nghe, nhất là khi nhớ lại
hình ảnh những đứa trẻ bị bắn chết. Tôi nghĩ mình cần làm gì đó, người Mỹ cần
biết sự thật về những gì đã xảy ra ở Mỹ Lai," Haeberle nói.
Haeberle sau đó đã
tìm tới một người bạn là biên tập viên làm cho tờ The Plain Dealer. Lúc đầu,
người này không tin những gì Haeberle nói dù đã được cho xem những bức ảnh.
"Nhưng sau khi
anh ta gọi cho Đại úy Aubrey Daniels ở căn cứ Fort Benning – người phụ trách vụ
truy tố Trung úy William Calley [một trong những người trực tiếp chỉ huy vụ thảm
sát] để hỏi thì quân đội lập tức yêu cầu không đăng ảnh và đây là minh chứng rằng
câu chuyện tôi nói hoàn toàn là sự thật," Haeberle nhớ lại.
Sau đó, The Plain Dealer đã công bố các bức ảnh vụ thảm sát vào ngày 20/11/1969, và bán hết sạch vào ngày hôm đó đến nỗi phải in thêm và mọi kênh tin tức sau đó đều viết về vụ Mỹ Lai.
Khi vụ việc được đưa
ra ánh sáng, dư luận Mỹ chia rẽ sâu sắc. Có người cho rằng đó là bản chất của
chiến tranh, nhưng hầu hết người Mỹ đều đang đặt câu hỏi cho chính phủ rằng Mỹ
thực sự đang làm gì ở Việt Nam. Nhiều người cho rằng cuộc chiến đã làm những
người lính trẻ mất đi nhân tính và đã đến lúc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam.
"Tôi nghĩ nó
làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiếp sức cho phong trào phản chiến, nhất là
khi báo chí liên tục đăng ảnh lính Mỹ tử trận – có ngày tới 50 người chết và mọi
thứ vượt khỏi tầm kiểm soát.
"Trong khi đó,
chính phủ vẫn nói Mỹ đang thắng thế. Toàn lời dối trá. Người Mỹ không hề thắng.
Cuộc chiến này, xét cho cùng, là không thể thắng nổi," ông Haeberle nói.
Mười tám bức ảnh màu do Haeberle chụp sau đó xuất hiện trên nhiều tờ báo và tạp chí lớn như Time, LIFE và Newsweek, biến ông trở thành một nhân chứng quan trọng trong vụ bê bối lớn bậc nhất lịch sử quân đội Mỹ. Chính nhờ những bức ảnh ấy mà sự thật dần được phơi bày và nhiều binh lính Mỹ bắt đầu lên tiếng kể lại những gì đã xảy ra trong ngày hôm đó.
Haeberle cũng bị triệu
tập đến làm chứng cho hai phiên tòa điều tra về vụ thảm sát. Tuy là người phanh
phui vụ việc bằng những tấm ảnh do chính mình chụp, Haeberle nói ông vẫn cảm thấy
tội lỗi vì đã che giấu, không lên tiếng bất cứ điều gì vào thời điểm đó mà tới
tận hơn một năm sau ông mới hành động.
"Tôi có lỗi vì
đã im lặng. Jay Roberts và tôi đều thừa nhận là đã che giấu. Nếu gọi đó là một
sự che đậy, thì nó là sự che đậy từ dưới lên đến tận chính phủ Hoa Kỳ thời đó.
Họ đều biết chuyện đã xảy ra," ông Haeberle khẳng định.
Nhiều bình luận cho
rằng, vụ thảm sát này cũng trở thành một trong những yếu tố dẫn đến sự triệt
thoái của quân đội Mỹ khỏi Việt Nam, khởi đầu bằng chiến lược "Việt Nam
hóa chiến tranh" từ năm 1969. Cuối cùng, cuộc chiến kết thúc khi chính phủ
miền Nam Việt Nam sụp đổ, Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản.
Những bức ảnh đã
thay đổi cục diện Chiến tranh Việt Nam đó cũng đã thay đổi cuộc đời của Ronald
Haeberle theo hướng khiến ông không ngừng tìm hiểu chuyện gì thực sự đã xảy ra.
Haeberle đã quay trở lại Sơn Mỹ tổng cộng bảy lần, trong nhiều vai trò: là nhiếp
ảnh gia, là khách du lịch, là nhân chứng lịch sử để nói chuyện với những người
sống sót.
"Tôi không ngồi yên để tự dằn vặt, tôi luôn hành động, đó là cách tôi giải tỏa những ký ức đau buồn khi chứng kiến cuộc thảm sát," ông Haeberle chia sẻ.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.