Những ngày qua dư luận
và cư dân mạng lại bắt đầu xôn xao vì thông tin hơn 53 ha rừng khộp của Vườn Quốc
gia Yok Đôn sắp bị cưa đốn vì lãnh đạo tiền nhiệm của tỉnh Đắk Lắk và Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thông cho phép một doanh nghiệp chuyển đổi mục đích
sang làm thủy điện. Nhiều nhà khoa học cùng cán bộ VQG Yok Đôn lo dự án thủy điện
này sẽ phá vỡ hệ sinh thái của vườn.
Nhìn lại kế hoạch đầy
tranh cãi này, và lịch sử của không ít vụ bê bối về thủy điện tại Việt Nam suốt
nhiều năm qua, có quá nhiều điều để chính quyền địa phương lẫn trung ương tại
Việt Nam phải suy ngẫm.
Thứ nhất chính là khả năng đánh giá tác động môi trường
có rất nhiều vấn đề của đơn vị đầu tư. Còn nhớ trước đây, có “nhà khoa học” từng
bắt chước cách đánh giá tác động môi trường của một nhá máy thủy điện tận
bên…Trung Cộng về áp dụng cho một nhà máy thủy điện tại Việt Nam, bất chấp hậu
quả. Thời gian qua, tác động ngoài khả năng kiểm soát của một số thủy điện càng
cho thấy việc đánh giá tác động môi trường của thủy điện, không hiểu vì năng lực
của nhà đầu tư và đơn vị đánh giá thấp, hay vì thiếu quan tâm đối với tác động
tiêu cực đối với môi trường, đều có vấn đề.
Theo nhận định của
đơn vị đầu tư vào dự án này, rừng đặc dụng khu vực làm thủy điện thuộc Vườn Quốc
gia Yok Đôn không ảnh hưởng nhiều đến VQG Yok Đôn vì chủ yếu là rừng nghèo và
đa dạng sinh học thấp (?!). Tuy nhiên, theo giới báo chí Việt Nam đã xâm nhập thực
địa và khảo sát khu vực “rừng nghèo” này, thì mọi thứ có vẻ không ăn khớp. Bằng
chứng là thông tin từ nhà báo Lữ Hồ đăng tải trên báo Tiền Phong mô tả
tương đối chi tiết về khu vực này như sau:
“Nhìn ra xung quanh đâu đâu
cũng thấy những cây bằng lăng cổ thụ cả hai người ôm không xuể. (…) Bên kia
sông Srêpốk, rừng cây cổ thụ dày đặc, sum suê hơn và trải dài xanh thẳm theo
dòng sông. Nhìn bằng mắt thường cũng dễ dàng nhận thấy tính đa dạng sinh học
khu vực rừng này không hề thấp. (…) Người dân địa phương đã từng đánh bắt được
nhiều cá mõm trâu, cá leo… cả hàng chục ký trên sông Srêpốk. Đây là những loại
cá quý có tên trong sách đỏ, chúng bơi ngược theo sông Srêpốk từ Biển Hồ
(Campuchia) qua đây sinh sản. Càng đi, chúng tôi càng gặp nhiều loại gỗ quý như
hương, cẩm lai, căm xe… phân bố rải rác khắp cánh rừng này. Rõ ràng, hệ sinh
thái rừng đặc dụng khu vực này của vườn quốc gia không hề nghèo nàn!”
Mặc dù phía nhà đầu
tư khẳng định thủy điện không ảnh hưởng nhiều đến vườn quốc gia, chính PGS.TS Bảo
Huy thuộc Khoa Nông lâm - Đại học Tây nguyên, đã đưa ra cảnh báo trên Tiền
Phong rằng vườn quốc gia Yok Đôn là quần thể sinh thái phong phú và đa dạng
về sinh học, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của vùng đất
Tây Nguyên.
Chúng ta không nên gây tác động tiêu cực vào đây. Nếu cứ đánh đổi rừng
đặc dụng để xây dựng thủy điện, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ chẳng còn rừng quốc
gia.
Thứ hai, cần phải nhớ
rằng các nghi án hạn hán kinh hoàng tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long của Việt
Nam, phần nào đó, là do việc khai thác rừng và sử dụng mạch nước ngầm, khai
thác các con sông thượng nguồn bất hợp lý hay quá tải từ khu vực Tây Nguyên.
Dù
đây chỉ mới dừng lại ở mức phỏng đoán và hoài nghi (do cơ sở dữ liệu yếu) nhưng
không có nghĩa đó sẽ không phải là sự thật. Việc khai thác rừng thượng nguồn về
mặt lý thuyết có khả năng gây hạn vào mùa khô, lũ quét vào mùa mưa, hậu quả là
người miền đồng bằng phải lãnh đủ thiên tai nhưng thực tế là nhân tai. Người
dân Việt Nam, đặc biệt người miền Trung, chắc chưa thể quên trận lụt kinh hoàng
vài ba năm trước như nhận chìm cả miền Trung vì các trung tâm thủy điện khu vực
Tây nguyên đồng loạt xả lũ. Xây thủy điện như thế khác nào treo cột nước tử thần
trên đầu mình?
Thứ ba, cần lưu ý rằng
xu hướng của thế giới là hạn chế, hướng đến xóa bỏ các nhá máy thủy điện, đặc
biệt thủy điện vừa và nhỏ. Nên biết rằng thủy điện vừa và nhỏ mang lại một mức
lợi ích, nếu so sánh với những nguồn lực đầu tư (rừng, môi trường…) không đáng
kể, thậm chí có xu hướng giảm dần. Tất nhiên phải thông cảm rằng Việt Nam chưa
thể xóa đập thủy điện như một số nước có nguồn năng lượng hạt nhân, tái tạo hay
nhiệt điện… dồi dào; nhưng thực tế bản đồ thủy điện Việt Nam đang quá tải với
quá nhiều nhá máy thủy điện lớn nhỏ. Đó là chưa kể Việt Nam vận động hạn chế tối
đa việc xây dựng thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong để tránh thiệt hại cho
hàng triệu dân ở hạ nguồn (nằm ở Việt Nam), nhưng chính Việt Nam lại muốn đưa
mình vào thế khó khi phải đánh đổi thiên nhiên và an ninh con người cho các nhà
đầu tư.
Tôi rất đồng tình với
TS Đào Trọng Tứ, Giám đốc trung tâm Phát triển bền vững tài nguyên nước và
thích nghi biến đổi khí hậu, nguyên phó Tổng thư ký Ủy ban sông Mekong Việt
Nam, khi ông phát biểu thẳng thắn trên báo chí rằng “Các thủy điện nhỏ hoặc lớn
được xây dựng trên tất cả các sông suối là bài toán đánh đổi lợi ích kinh tế và
môi trường như mọi người đều biết.
Vậy việc xây dựng các thủy điện trong các vườn
quốc gia, khu bảo tồn chỉ vì lợi ích quá ư nhỏ bé mà người ta sẵn sàng bỏ qua cả
luật pháp, cả lợi ích cho xã hội, cho con cháu sao?”
Thiết nghĩ quá trình đánh
giá và cho phép đầu tư thủy điện cần phải có những thay đổi, cải cách mạnh mẽ để
siết chặt tính kỷ luật hơn với môi trường, tức là sống có trách nhiệm hơn với
tương lai con cháu đời sau. Những mảnh đất nứt nẻ khô cằng Miền Tây vẫn ám ảnh
hàng triệu người, cùng với đó là những trận lũ quét kinh hoàng. Không lẽ bấy
nhiêu chưa đủ báo động nguy cơ và rủi ro ghê gớm của việc phá rừng làm thủy điện
của Việt Nam suốt những năm qua hay sao?
Cao Huy Huân
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.