Sau khi được cộng đồng
người Việt ở hải ngoại giúp đỡ, trưa 12 Tháng Tư, 2016, bà quả phụ cố Ðại Úy
Nguyễn Văn Ðương, tức Trần Thị Mai, và người con trai út Nguyễn Viết Xa đã có
chuyến đi từ Sài Gòn đến đồi 31, Hạ Lào, nơi “Người Anh Hùng Mũ Ðỏ Tên Ðương” hy
sinh.
Bà quả phụ Nguyễn
Văn Ðương và con trai Nguyễn Viết Xa khấn vái vong linh của chồng và cha trên đỉnh
đồi 31, Hạ Lào.
Buổi trưa hôm ấy,
anh Nguyễn Viết Xa cũng chay xe ôm, nhưng khác hẳn mọi hôm, hôm nay anh chở vị
khách đặc biệt, là mẹ của mình, thẳng tiến phi trường Tân Sơn Nhất, bắt đầu cuộc
hành trình đầy khó khăn để sang vùng đất nơi thân phụ mình nằm lại.
Máy bay vừa cất
cánh, bà Mai quay sang chúng tôi nở nụ cười: “Ðây là lần đầu cô đi máy bay, nên
cảm giác hơi run. Nhưng cứ nghĩ sắp được đến Hạ Lào là vui lắm.”
Ngồi bên cạnh bà
Mai, anh Nguyễn Viết Xa cũng vậy. Khuôn mặt hiền lành, nhìn cái gì trên máy bay
cũng đều lạ lẫm. Có lẽ suốt hàng chục năm qua, ước mơ một lần được ngồi máy bay
của vợ con người anh hùng Mũ Ðỏ tên Ðương mới thành hiện thực.
Bà quả phụ Nguyễn Văn Ðương và con trai Nguyễn Viết Xa lần đầu tiên trong đời đi máy bay.
Tỉnh Quảng Trị có
ranh giới với Hạ Lào, không có phi trường, chúng tôi mua vé bay ra phi trường
Phú Bài của Huế, rồi từ đó bắt xe đi Quảng Trị, men theo đường tỉnh lộ 9 sang
biên giới nước Lào qua cửa khẩu Lao Bảo.
Ðón chúng tôi ở phi
trường Phú Bài là hai người quen mà phóng viên Người Việt đã liên lạc từ trước.
Họ đều là người Việt Nam đang sinh sống và làm ăn ở Lào và nói được tiếng Lào
sành sỏi. Khi nghe tin báo Người Việt đề cập đến việc đưa bà Mai sang vùng Hạ
Lào, họ vui vẻ bỏ công việc và bắt xe để giúp đỡ cuộc hành trình mà chúng tôi
đang hướng đến.
Ðường đến Hạ Lào
Trên đoạn đường số 9
này, đoàn chúng tôi ghé lại khu vực Khe Sanh, nơi chiến trường khốc liệt trong
chiến dịch hành quân Lam Sơn 719, thắp nén nhang tưởng niệm các tử sĩ VNCH,
cũng như các quân nhân Hoa Kỳ hy sinh ở khu vực đồi núi này.
Con đường 9 ngoằn
ngoèo, băng qua những vùng đồi núi trập trùng đầy cây xanh. Ðến cửa khẩu Lao Bảo
đã 5 giờ chiều, làm thủ tục xuất và nhập cảnh xong là trời tối đen như mực. Hạ
Lào đón chúng tôi bằng một cơn mưa tầm tã.
Hạ Lào là một vùng
quê miền núi nghèo khó, nguồn thu nhập của người dân ở đây chủ yếu từ cây chuối.
Tìm một khách sạn đầy đủ tiện nghị ở đây còn khó hơn lên trời. Chúng tôi tìm
mãi mới ra được một khách sạn, hay nói đúng hơn là một nhà nghỉ ven đường, vì
phòng chỉ có một chiếc quạt gọi là& tiện nghi. Ngoài ra không có vật dụng
gì khác.
Thời tiết ở đây khắc
nghiệt, ban đêm trời lạnh và ẩm ướt bởi sương mù. Nhưng ban ngày rất nóng bởi
ánh nắng mặt trời và nguồn gió Lào khô khan.
Ðêm đó, nói chuyện với
chủ khách sạn, chúng tôi biết được 2 ngày nữa là ngày Tết chính thức của người
Lào. Người dân đang chuẩn bị đón tết, nên chợ búa, hàng quán không buôn bán gì.
Bởi vậy việc tìm khách sạn đã khó, mà việc tìm thức ăn còn khó hơn.
Cuối cùng mọi người
ăn món “xôi hấp thịt gà nướng,” món đặc trưng của người dân nơi đây. Bà Mai lại
là người ăn chay trường, bởi vậy chỉ có thể ăn một ít xôi với phần lương khô
chay, mà bà đã chuẩn bị sẵn mang theo.
Gian khó là vậy,
nhưng khi được hỏi “cô có mệt không?” Bà trả lời: “Có gì đâu mà mệt, cứ nghĩ
sáng mai được đến đồi 31 là hết mệt. Cảm xúc của cô bây giờ cứ vui buồn lẫn lộn.
Vui vì sắp được chứng kiến nơi anh Ðương đã hy sinh. Nhưng buồn vì có lẽ khó mà
tìm được xương cốt của ảnh.”
Hai mẹ con khi vừa bước
qua cửa khẩu biên giới Việt-Lào.
Rồi bà tiếp tục cầm
tràng hạt, miệng lẩm nhẩm tụng kinh. Tôi nhìn bà, nét khắc khổ hiền hòa của người
phụ nữ miền Nam. Trong thời chiến, họ hy sinh ở nhà chăm sóc con cái cho chồng
ra chiến trận. Thời bình, họ đứng trước cảnh mất chồng, các con thơ còn quá nhỏ.
Thế nhưng họ không bỏ cuộc, tiếp tục cuộc mưu sinh, nuôi dạy con khôn lớn.
Ðồi 31, nơi người lính không về!
Sáng 13 Tháng Tư, đúng vào 30 Tết của người Lào, cả khu thị trấn Tchepone-Hạ Lào vắng hoe. Chúng tôi ghé một quán cà phê cóc ven đường, tình cờ gặp anh Kha, một người Việt đang làm ăn sinh sống ở đây.
Khi được hỏi về đồi
31 Hạ Lào, anh Kha cho biết: “Người dân ở đây gọi vùng đất này là Nam Lào, tôi
chỉ biết là có một ngọn đồi, trước 1975 là nơi đóng quân của lính VNCH và lính
Mỹ.
Hiện nay họ đã làm một
viện bảo tàng. Nhưng không biết đây là đồi 30 hay 31.”
Rồi anh chỉ đường
cho chúng tôi. Ðó là một ngọn đồi rộng khoảng 10 hecta. Bên ngoài cổng có tấm
biển ghi bằng tiếng Lào và tiếng Anh, tạm dịch sang tiếng Việt là “Bảo tàng di
sản chiến tích chiến tranh Việt Nam-Lào trên đường 9.”
Khung cảnh hoang vắng,
không một bóng người. Nơi đây vẫn còn lưu giữ những chiếc trực thăng của Mỹ, Xe
chở quân đội VNCH, súng ống đại bác... Tại đây chúng tôi gặp được anh Xê Phảnh,
người Lào, là người bảo vệ ở khu vực này.
Khi được hỏi về đồi
31, anh cho biết: “Ở đây là khu vực đồi 30, khu vực của quân đội Mỹ và VNCH
đóng quân trước đây, thuộc huyện Sepone, tỉnh Savannakhet. Còn đồi 31 cách đây
khoảng 7km, cũng sát bên đường 9, nó thuộc bản Skiphine.”
Ngôi miếu thờ trên đỉnh
đồi 31
“Hiện nay bên đồi 31
chỉ có một cái miếu thờ, người ta đã xây hàng rào bao xung quanh, phải có chìa
khóa mới vào bên trong được.” Anh Xê Phảnh vừa nói, vừa chỉ tay sang khu vực
vùng đồi 31.
Sau khi nghe chúng
tôi trình bày về mục đích đi đến đây, anh Xê Phảnh ngạc nhiên: “Tôi làm việc ở
đây đã hơn 15 năm, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy một phái đoàn thuộc lính
VNCH ngày xưa sang đây thắp hương.”
“Các cựu chiến binh
miền Bắc Việt Nam hàng năm vẫn đến đây viếng thăm, nhưng phía VNCH thì không thấy
ai? Có lẽ quí vị là người đầu tiên thuộc lính VNCH tìm đến đây để viếng?”
Anh Xê Phảnh cho biết
thêm: “Ðồi 31 chủ yếu là lính miền Bắc Việt Nam, chết rất nhiều. Vì Mỹ cho B52
rải thảm ở khu vực đó. Bởi vậy bên đó người ta xây đền thờ lính miền Bắc với
dòng chữ ‘Tổ quốc ghi công’. Còn lính miền Nam cũng có chết ở đó, nhưng rất
ít.”
Khi chúng tôi đề cập
đến việc dẫn phái đoàn qua thăm đồi 31, anh Xê Phảnh tỏ ra lo ngại:
“Thật tình mà nói, nếu
sếp tôi có ở đây thì các bạn khó mà tự do đến đó (chính quyền đang quản lý khu
đồi 31 hiện nay là Ðảng nhân dân cách mạng Lào, rất thân với Ðảng CSVN).
Nhưng
nay là dịp Tết của người Lào, nên ông ta đã về Viêng Chăn ăn tết cùng gia
đình.”
Nghe xong, chúng tôi thở
phào nhẹ nhõm vì nếu đi qua Lào vào ngày khác, có lẽ khó mà vào được đồi
31.
Bà Mai đã lấy nắm đất
trên đồi 31, nơi Ðại Úy Ðương hy sinh để mang về Việt Nam.
Anh Xê Phảnh đưa
chúng tôi sang đồi 31. Từ đồi 30, men theo đường 9, hướng về cửa khẩu Lao Bảo-Việt
Nam khoảng 7km, sẽ bắt gặp một ngọn miếu thờ bên phía tay trái nằm trên một ngọn
đồi hiu quạnh.
Ðồi 31 nằm sát ngay
đường 9, khu đất này cao hơn mặt đường khoảng 10m. Tấm bảng bên ngoài bức tường
rào, ngay cổng lối đi vào khu đền thờ, ghi bằng cả chữ Lào và Việt Nam với lời
lẽ đầy phân biệt đối với chính quyền VNCH.
Mong anh hãy theo mẹ con em về Việt Nam
Ðúng 11 giờ trưa, chúng tôi đến khu vực đồi 31. Ngọn đồi hoang vu giá lạnh. Ðất đai khô cằn, nền đất đỏ với nhiều hạt đá nhỏ trộn lẫn vào nhau. Chỉ có giống cỏ voi là còn mọc được nơi đây, ngoài ra không thấy cây cối nào khác.
Cầm tấm hình cố Ðại
Úy Ðương trên tay, bà Trần Thị Mai bước xuống xe như ứa nước mắt, nhìn xa xăm
và nói: “Cô cảm thấy lạnh quá cháu à. Cô cảm nhận được anh Ðương đang ở rất gần
đây.” Rồi cô ôm bó nhang, cùng bịch trái cây đã chuẩn bị sẵn mang theo bên
mình, đi đến khu vực có miếu thờ.
Chưa đi tới cổng
vào, tự nhiên một trái táo trong món đồ cúng mang theo rơi xuống đất. Bà Mai giật
mình đứng lại, hai tay chắp lại, quì xuống vái lạy và miệng lẩm nhẩm: “Anh
Ðương ơi, có phải anh muốn báo nơi anh mất chính là ở đây?” Rồi bà òa khóc nức
nở.
Thấy thế, anh Nguyễn
Viết Xa cũng chạy đến bên mẹ, và hỏi: “Hay là mình cúng ở đây đi mẹ à.” “Ừ,
đúng rồi, mình làm lễ thắp hương ở đây đi con. Mẹ cảm nhận cha con đã hi sinh ở
nơi này.” Bà Mai trả lời.
Rồi bà thắp nhang,
bày vật dụng đã mang sẵn theo ra để làm nghi thức cúng viếng. Trong tiếng gió
rít trên đồi, tiếng bà thì thầm với người chồng nằm lại mảnh đất này: “Anh
Ðương ơi, hôm nay em dẫn con trai của anh đến đây thắp nhang và rước vong hồn của
anh về lại Việt Nam. Ðây là lần đầu tiên em đến được nơi này.”
“Nếu anh có linh
thiêng thì hãy theo mẹ con em về Việt Nam, chứ ở đây lạnh lẽo lắm anh à. Em sẽ
thỉnh một nắm đất nơi đây, đem về Việt Nam để nơi Chùa, mong hương hồn anh hãy
theo em về, để mẹ con em còn được thắp hương cúng thờ cho anh.”
Bà Mai vừa nói, vừa
bốc nắm đất bỏ vào cái khăn vải đỏ gói lại để mang về Việt Nam.
Bàn thờ tạm trong
ngôi miếu trên đồi 31, nơi bà Mai cúng vái vong linh của chồng cùng các tử sĩ của
cả 2 bên.
Còn anh Nguyễn Viết
Xa nói với cha: “Ba ơi, 45 năm rồi từ ngày ba ra đi đến hôm nay con và mẹ mới
được đến nơi đây. Ngọn đồi 31 này con cũng nghe nhiều, nhưng hôm nay mới được
chứng kiến. Con và mẹ đã rất muốn đến đây sớm hơn, nhưng điều kiện không cho
phép. May mà có quí vị ân nhân ở hải ngoại giúp đỡ, nay mẹ và con mới đến được
nơi này.”
“Khi ba mất con còn
quá nhỏ. Bởi vậy con không nhớ gì về thời gian ba còn sống bên con. Chỉ nghe mẹ
nói trong 4 anh chị em, ba thương con nhất. Con mong ba hãy an nghỉ, bởi còn có
rất nhiều người quí mến ba. Họ đã giúp đỡ con và mẹ rất nhiều trong thời gian
qua.”
Trong khi ấy, bà Mai
sụt sịt khóc: “Mong anh hãy tha lỗi cho em, vì em chưa làm tròn bổn phận của
người vợ. Tâm nguyện của anh, em cũng không hoàn thành. Vì đời sống quá khó
khăn, bốn đứa con không đứa nào được ăn học đàng hoàng. Hai đứa cũng đã mất rồi
anh à...”
Rồi bà cầm xấp giấy
tiền hàng mã, rải đều trên đất. Mảnh đồi hoang vu, cùng với cơn gió Lào thổi mạnh,
khiến cho từng tờ giấy bay xa. Khuôn mặt bà nhìn xa xăm theo làn gió theo những
tờ vàng mã bay xa. Một mắt bà đã mù hẳn, con mắt còn lại cũng yếu mờ, nhưng bà
vẫn cố nhìn ra xa, xa mãi nơi ngọn đồi 31 huyền thoại, nơi rất nhiều người lính
vẫn nằm lại nơi đây không trở về.
Sau nghi thức cúng
vái, bà Mai đi thắp nhang khắp nơi, xung quanh ngọn đồi 31. Bà đi mà không biết
mệt giữa cái nắng chói chang và từng cơn gió Lào nóng khô khốc, hất vào mặt, từng
cơn, từng cơn...
“Cô phải thắp càng
nhiều càng tốt, không những cho anh Ðương mà còn các đồng đội của anh nữa con
à. Họ cũng lạnh lẽo lắm, bao năm qua không ai nhang khói hết!”
Sau đó, bà cầm di ảnh
và “nắm đất” của cố Ðại Úy Ðương, tiến thẳng vào ngôi miếu thờ. Tại đây bà bày
mâm cơm để cúng các vong linh đã bỏ mình nơi đây, trong đó có cả lính bộ đội Bắc
Việt.
Bà Mai thắp hương,
vái lạy, miệng cầu: “Xin chào các người lính đã hy sinh nơi đây, hôm nay tôi đến
đây để thắp nén nhang kính viếng đến các anh. Tôi là vợ của người lính VNCH,
nhưng tôi cũng cầu chúc cho các vong linh của người lính Bắc Việt. Chiến tranh
đã đi qua, mong các anh hãy tha thứ cho nhau.”
Hai mẹ con bà Mai thắp
nhang khắp khu đồi 31.
“Tuy khác chiến tuyến,
nhưng các anh đều đã hy sinh ở cùng một nơi này. Âu cũng là số phận. Bởi vậy ở
thế giới bên kia, mong các anh hãy là những người bạn tốt của nhau, chứ đừng cầm
súng mà chĩa vào nhau nữa. Tất cả chúng ta đều là người Việt Nam cơ mà.” Bà Mai
gửi lời đến các vong linh.
Mong vợ chồng được ở mãi bên nhau
Sau nghi thức cúng viếng ở đồi 31, mọi người bắt đầu ra về. Bà Mai vui hẳn: “Cô vui vì cô tin là anh Ðương sẽ theo cô về Việt Nam.”
Khi được hỏi, lúc
còn sống kỷ niệm nào về Ðại Úy Ðương khiến bà nhớ nhất, bà cho hay:
“Tính anh
Ðương hay ‘nổ’ (nói dóc) lắm con à. Cô nhớ trước khi đi chiến dịch Lam Sơn, anh
Ðương có nói là đợt này đi xong chiến dịch là anh sẽ lên lon thiếu tá.”
“Hồi đó cô nghe chỉ
cho vui, cứ nghĩ ổng lại ‘nổ’ nữa rồi. Ai ngờ ổng lên thiếu tá thật.
Nhưng có
điều sau khi mất mới được vinh thăng. Có lẽ đây là lời ‘nổ’ chính xác nhất của
anh Ðương.”
Những mẩu chuyện vừa
vui vừa buồn theo suốt chiều dài cuộc hành trình từ Hạ Lào về lại Huế. Chúng
tôi lưu trú lại thành phố Huế một đêm.
Ðêm duy nhất ở Cố
Ðô, chúng tôi lại có một kỷ niệm đẹp khi mọi người cùng đi ăn tối.
Chúng tôi bất
ngờ được anh Lê Quýnh, một người gốc Huế, nhận ra bà Mai và chủ động tới bắt
chuyện.
“Tôi biết được câu
chuyện của cô khi vô tình đọc được bài viết trên báo Người Việt Online. Không
ngờ được gặp cô nơi đây. Bản thân tôi rất yêu thích bản nhạc ‘Anh Không Chết
Ðâu Anh’ và quí mến, nể trọng Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương.” Rồi anh lấy Guitar, tự
đàn hát ca khúc “Anh Không Chết Ðâu Anh” để tặng mọi người.
Sáng hôm sau, chúng
tôi trở về lại Sài Gòn và đi thẳng đến một ngôi Chùa mà bà Mai đã đặt trước am
thờ và nhờ thầy tụng kinh niệm Phật.
“Sau này cô mất, cô
mong muốn được thiêu và mang tro cốt đặt bên cạnh Ðại Úy Ðương nơi đây. Ðể con
cháu có thể dễ dàng đến thắp nhang cúng viếng. Và cũng để vợ chồng cô mãi mãi
được bên nhau,” bà Mai tâm sự.
Việt Hùng/NV
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.