Lãnh đạo Việt Nam kỳ
vọng nâng mức thu nhập trung bình lên trên 7.000 USD vào năm 2035 nếu đạt tỷ lệ
tăng trưởng GDP tối thiểu 7% mỗi năm từ nay.
Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ 12 kết thúc với phát biểu cảm xúc của tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng ‘dân chủ đến thế là cùng’.
Kỳ họp cuối cùng của
Quốc hội khóa 13 cũng đã kết thúc ngoài dự kiến khi miễn nhiệm dàn lãnh đạo cũ
và bổ nhiệm mới để lấp khoảng trống quyền lực giữa đảng và chính phủ với tuyên
bố thủ tục rằng ê kíp lãnh đạo mới này sẽ tiếp tục được giới thiệu ra Quốc hội
14 theo Hiến định.
Các nhà quan sát thế
giới và trong nước đang theo dõi những quyết định nhân sự của đảng và động thái
của tân chính phủ thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Những thách thức
kinh tế kéo dài từ các chính phủ tiền nhiệm, như thâm hụt ngân sách nặng nề,
chi thường xuyên lớn, hết dư địa cho đầu tư phát triển, nợ công cao và tăng
nhanh, nợ xấu cao tạo rủi ro cho hệ thống tài chính ngân hàng, doanh nghiệp làm
ăn khó khăn, giải thể nhiều… cộng thêm những bất lợi về thiên tai ảnh hưởng xấu
đến sản xuất nông nghiệp, làm giảm thiểu tốc độ tăng của nền kinh tế.
Trên các phương tiện
thông tin đại chúng xuất hiện những phóng sự ‘nặng ký’ về các dự án sai phạm đất
đai ở Vườn Quốc gia Ba Vì Hà Nội, dự án nhiều nghìn tỷ ‘đắp chiếu’, như dự án
TISCO – Công ty cổ phần gang thép Thái Nguyên (8.104 tỷ đồng), dự án sơ sợi Hải
Phòng (7.000 tỷ đồng), nhà chờ xe buýt nhanh (1.000 tỷ đồng) ở Hà Nội, các dự
án không hiệu quả như Bảo tàng Hà Nội...
Những bức xúc xã hội
như dân oan, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, gia tăng phân hóa giàu nghèo, tệ
nạn xã hội, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, chạy quyền chạy chức, giảm sút chất
lượng dịch vụ xã hội, tăng phí giao thông, phí y tế… tạo sức ép đối với cuộc sống
người dân, làm mất lòng tin vào chế độ…
Các chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh PCI và chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh
PAPI ở Việt Nam 2015 mới vừa được công bố cho thấy sự yếu kém của bộ máy công
quyền không được cải thiện, phí ‘bôi trơn’ tăng lên và tham nhũng là căn bệnh
kinh niên.
Tăng trưởng GDP quý
1/2016 giảm sút còn 5,46% so với cùng kỳ năm 2015 là 6,12% (bỏ qua những nghi vấn
về tính trung thực số liệu thống kê), con số 7,3 tỷ đô la các ngân hàng, tổ chức
và cá nhân chuyển ra nước ngoài… tạo ra hiện tượng ‘bất bình thường’.
Kế hoạch tăng trưởng
bình quân năm trong 5 năm 2016-2020 được Quốc hội khóa 13 thông qua là 6,5%
-7%. GDP/đầu người ước đạt 3.200 USD.
Nhìn lại, chỉ tiêu
này trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2020 đưa Việt Nam trở thành
nước công nghiệp hóa, GDP/ đầu người khoảng 5.000 USD, rõ ràng không thể đạt được.
Sa lầy trong tư duy
Đến năm 2038, Việt
Nam mới có thể bắt kịp năng suất lao động của Philippines và đến năm 2069 mới
có thể bắt kịp Thái Lan, theo tác giả.
Sự tụt hậu kinh tế
Việt Nam so với các nước trong khu vực ngày càng lớn.
Theo số liệu của
Ngân hàng Thế giới (WB), thu nhập bình quân đầu người năm 2014 của Việt Nam là
2.052 USD, trong khi khi Singapore là 56.287 USD, Malaysia là 10.830 USD, Thái
Lan là 5.561 USD và Indonesia là 3.515 USD.
Như vậy, chỉ tiêu
này của nước ta tụt hậu so với Hàn Quốc chừng 30 đến 35 năm, Malaysia khoảng 25
năm, Thái Lan chừng 20 năm, Indonesia và Philippines chừng từ 5 đến 7 năm. Đến
năm 2038, Việt Nam mới có thể bắt kịp năng suất lao động của Philippines và đến
năm 2069 mới có thể bắt kịp Thái Lan…
Báo cáo “Việt Nam
2035 – Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ”, do các chuyên
gia World Bank và Việt Nam thực hiện – được nhận xét là quá lạc quan, khi cho rằng
Việt Nam nếu duy trì mức tăng trưởng tối thiểu 7% mỗi năm để nâng mức thu nhập
trung bình lên trên 7.000 USD vào năm 2035, tuy nhiên đã đề xuất nhiều khuyến
nghị quan trọng, đặc biệt là cải cách thể chế.
Các chuyên gia nhận
định: “Việt Nam đang có nguy cơ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình thấp và
khó thoát ra khỏi tình trạng này nếu không có các giải pháp cải cách mạnh mẽ,
quyết liệt”.
Liệu đây là lời cảnh
báo cho ‘chiến lược’ phát triển mới của Việt Nam?
Tại sao Việt Nam lại
là ‘đất nước không chịu phát triển’?
Có ba nhân tố cơ bản
quyết định một quốc gia sẽ phát triển, giàu có: thể chế, vị trí địa lý và văn
hóa. Nhân tố hàng đầu là thể chế. Nói chung, những nước phát triển có một thể tốt
và những nước kém phát triển có một thể chế tồi.
Việt Nam ‘sa lầy’
trong tư duy giáo điều về chủ nghĩa Mác – Lê, chủ nghĩa xã hội trong thời gian
dài, khiến cho cải cách thể chế không mang lại hiệu quả.
Đào tạo cho các lớp
‘cán bộ nguồn’, chương trình chính khóa về tư tưởng Mác – Lê Nin trong các trường
đại học, cao đẳng, dạy nghề chiếm dung lượng lớn đã làm kéo dài thời gian đào tạo,
gây nên những phản ứng từ học sinh và đối với vấn đề cải cách giáo dục, đào tạo.
Nay sinh viên học
trường đều phải đóng học phí, họ cần được biết các tư tưởng, triết lý khác
ngoài hệ quy chiếu này.
Mâu thuẫn hai hệ thống
Việt Nam đang trong
quá trình chuyển giao quyền lực lãnh đạo kể từ sau Đại hội 12 của Đảng Cộng sản.
Mâu thuẫn giữa hai hệ
thống giá trị và lợi ích của chủ nghĩa xã hội và thị trường tạo ra những khoảng
trống quyền lực không kiểm soát, lợi ích nhóm và tham nhũng… trở thành quốc nạn
và đang cản trở đổi mới.
Tập trung cao quyền
lực trung ương, thiếu vắng hoặc mang tính hình thức cơ chế giám sát, phản biện,
giải trình, công khai minh bạch của chính quyền, không công nhận tổ chức xã hội
dân sự, thiếu thực chất sự tham gia của người dân trong quản lý nhà nước… đang
làm cho thể chế méo mó, xã hội xuống cấp và người dân mất niềm tin.
Cải cách kinh tế tất
yếu dẫn đến thay đổi thể chế chính trị, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, bảo
thủ. Vấn đề là thời gian.
Quan sát các nước gần
đây trong khu vực, bài học kinh nghiệm từ Indonexia có ích cho Việt Nam để tiếp
tục đổi mới.
Tính phức tạp xã hội,
nhân khẩu học, kinh tế liên tưởng tới thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam, nhưng
với những cải cách mạnh mẽ gần đây khiến chất lượng thể chế của Indonesia ổn định,
ngày càng được cải thiện và được thế giới đánh giá cao.
Những tiến bộ thể hiện
ở việc quyền hạn của Quốc hội và tư pháp được củng cố, thể chế tam quyền phân lập
được xác lập từng bước. Năm 1999, lần đầu tiên Indonesia thực hiện tổng tuyển cử,
năm năm sau, lần đầu tiên dân chúng được trực tiếp bầu tổng thống.
Về thể chế kinh tế,
ngân hàng nhà nước được độc lập, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế dài
hạn được hoạch định công phu, với nội dung có sức thuyết phục và các cơ chế, biện
pháp thực hiện chi tiết và có tính khả thi cao.
Những bài học sâu sắc
nêu trên được trình bày trong cuốn "Indonesia: Cường quốc kinh tế."
Nhân tố thứ hai làm
cho đất nước tụt hậu là văn hóa – những thứ đã in sâu vào tâm trí, quan điểm,
niềm tin và định hướng hành vi.
Cơ sở văn hóa lúa nước,
trọng tình, nước đôi… ảnh hưởng của Nho giáo, Khổng giáo… đã không hỗ trợ kinh
tế thị trường. Năm 2015 có khoảng 9000 lễ hội, trong đó nhiều hình thức biến tướng,
buôn thần bán thánh, kích thích lòng tham tiền và quyền lực, hủ tục lạc hậu.
Cho tôi một thể chế
V. I. Lê Nin, lãnh tụ
cộng sản Nga đầu thế kỷ 20, từng nói ‘nếu cho tôi một thể chế tôi sẽ xoay chuyển
nước Nga’, theo tác giả.
Cải cách văn hóa ở
đây, một mặt phải kết hợp giữa niềm tin tôn giáo và sự tạo ra của cải nhiều
hơn, mặt khác tạo cơ chế tự do cá nhân và dân chủ để con người tin tưởng mạnh mẽ
vào khả năng để thay đổi số mệnh của họ thông qua việc nỗ lực và tài năng, chứ
không phải thế lực siêu nhân, hay sự trông chờ vào đảng và nhà nước.
Vị trí địa lý là một
nhân tố đặc biệt ảnh hưởng đến sự phát triển của Việt Nam.
Trái với những bài học
ca ngợi tổ quốc thời niên thiếu rằng nước ta ‘mưa thuận, gió hòa, rừng vàng, biển
bạc…’, Việt Nam, không thực giàu có về trữ lượng tài nguyên thiên nhiên, lại nằm
ở vùng nhiệt đới khắc nghiệt chịu ảnh hưởng lớn từ biến đổi khí hậu, giông bão,
hạn hán, ngập mặn do nước biển dâng, các dịch bệnh nhiệt đới đòi hỏi chi phí lớn
để bảo vệ con người, súc vật và cây trồng…
Tuy nhiên trong bối
cảnh hiện nay, yếu tố này trở thành ‘lời nguyền địa lý’ bởi sự chung biên giới
và quan hệ truyền thống với Trung Cộng.
Lịch sử chống xâm
lăng hàng nghìn năm, chung ý thức hệ tư tưởng, đồng dạng thể chế chính trị,
kinh tế và sự tranh chấp ngày càng căng thẳng trên biển đông và sự quan sự hóa
quần đảo Trường Sa của Trung Cộng hiện nay, khiến cho Việt Nam trở ngại trong lựa
chọn đường hướng cải cách, tác động đến thể chế, làm cho chi phí quân sự, an
ninh gia tăng…
Nếu các nhà lãnh đạo
thấy khó khăn, hãy để mọi người dân được lựa chọn cách thức trong đó họ toàn
quyền quyết định vận mệnh dân tộc và của chính họ.
Để phát triển bền vững
và thịnh vượng, cần có một thể chế phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại – kết
tinh giá trị của sự phát triển nhân loại trong thời đại hiện nay, một thể chế
cho phép Việt Nam khi đó không chỉ sẽ giảm thiểu khoảng cách tụt hậu kinh tế,
mà còn hy vọng một tương lai tươi sáng.
V. I. Lê Nin, lãnh tụ
giai cấp vô sản Nga đầu thế kỷ 20, đã từng nói, đại thể ‘nếu cho tôi một thể chế
tôi sẽ xoay chuyển nước Nga’.
PGS. TS. Phạm Quý Thọ
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.