Từ ngàn xưa,
những kẻ thù ghét tôn giáo vẫn luôn tìm mọi cách để trừ khử những người có tín
ngưỡng vì một khi có tín ngưỡng, con người không còn sợ hãi thế quyền nữa, và
có thể không tuân lệnh của nhà cầm quyền để làm những chuyện ác độc.
Riêng với
Thiên Chúa giáo, những kẻ có sức mạnh, có quyền lực trong tay thì vừa sợ hãi Tôn Giáo này, vừa ghét những kẻ chỉ tin vào Chúa trên trời mà không tin vào Vua
trần gian, nên dùng mọi thủ đoạn nhằm tiêu diệt những ai tin theo Chúa.
Tại
Roma, vẫn còn di tích của các hầm ngầm dưới đất dành cho những người Công Giáo
từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3, vì họ bị cấm lên sinh hoạt trên mặt đất khi
lệnh cấm đạo được ban hành gắt gao. Vì thế, người sống ở lẫn với người chết, ăn
uống cầm chừng với những thức ăn mà người trên mặt đất ném xuống cho.
Khi chết,
thì đục lỗ ngang hông và nhét xác vào đấy cho tàn rữa dần. Thật là kinh khủng
khi phải hít thở hơi thối của phân người sống phóng uế và xác người chết thối
rữa. Ngủ với dòi bọ, thức với bệnh tật và sự sợ hãi. Nhưng nếu vì gớm ghiếc
cuộc sống dưới hầm này, thì lên trên mặt đất để bị xử chết, bị đẩy vào đấu
trường nơi sư tử, chó sói đợi chờ. Hàng vạn người bị đóng đinh, treo cổ, đốt
sống như những cây đuốc mặc dù họ chỉ là những người dân vô tội, hiền lành,
không phạm một lỗi tội gì với nhà cầm quyền, trừ việc họ kính sợ Thiên Chúa của
họ. Và cuộc sống đầy đọa khổ hơn súc vật như thế đã kéo dài hơn ba trăm năm,
tức là ba thế kỷ.
Tại nhiều nơi khác trên thế giới, hễ mang dấu thập giá cũng bị giết một cách
tàn khốc. Trong thế chiến thứ Nhất và thứ Hai, tại rất nhiều nơi, người theo
Thiên Chúa Giáo bị tận diệt trước những sắc dân khác. Đảng Cộng Sản Liên Xô và
Đảng Cộng Sản Trung Cộng, sau thế chiến thứ hai, thì đặt những người Công Giáo
vào danh sách ưu tiên bị xử chết.
Tại Việt Nam, trước 1975, ở miền Bắc, số linh mục, tu sĩ bị thủ tiêu, bị nhốt
cho chết dần lên đến con số chục vạn. Sau 1975, ở miền Nam, khởi đầu với vụ
Vinh Sơn và một linh mục bị xử bắn đến Thái Hà, Tam Tòa, Loan Lý, nay đến Đồng
Chiêm, qua những vụ bắt bớ cá nhân như Linh Mục Nguyễn văn Lý và nhiều vị khác
còn trong tù, Cộng Sản Việt Nam vẫn chứng tỏ rằng chúng là kẻ thù của Tôn Giáo
và luôn tìm cách tiêu diệt niềm tin của tôn giáo bằng những thủ đoạn gian manh,
vô liêm sỉ, đồng thời chia rẽ năm (5) tôn giáo lớn với nhau. Nói chung, Cộng
Sản coi Tôn Giáo như là một kẻ thù truyền kiếp, cần phải tiêu diệt.
Từ 1975, chúng đã bắt nhốt và thủ tiêu nhiều vị tăng ni Phật Giáo. Một Thượng
Tọa Thích Thiện Minh bị chúng giết trong tù. Một Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị
đầy ải trong nhiều trại khổ sai 26 năm. Với Hòa Hảo, chúng phân rẽ thành hai ba
nhóm, xúi giục nhóm này mạ lị nhóm kia và tìm cách đập bỏ các điện thờ thiêng
liêng có từ hơn 100 năm nay. Với Tin Lành, trong khi cho môt tổ chức này làm lễ
linh đình, chúng gia tăng đánh đập, bỏ tù và đấu tố các Mục Sư khác, cho du
đãng ném đá, cưa xập nhà của các vị Mục Sư nói lên tiếng nói lương tâm. Còn Cao
Đài, chúng nhốt những vị lãnh đạo tinh thần có tư tưởng Quốc Gia cũ, bổ dụng
thêm một số “quốc doanh” rồi khống chế giáo hội.
Hiện nay, Cao Đài tại Thánh
Thất Tây Ninh đã chuyển mình thành một cơ sở quốc doanh với toàn bộ các lãnh
đạo là người của chúng. Ai không theo, chúng bắt bỏ tù và cướp đất, cướp nhà
của các tín hữu, những ai không đầu hàng chúng. Trong khi đó, tại hải ngoại, chúng
tung tin giả “Hòa Thượng Thích Quảng Độ chính là Cộng Sản trá hình, Phật Giáo
là cánh tay mặt của Cộng Sản.” rồi làm băng hoại chùa chiền bằng những hành
động vô tôn giáo. Gửi sư công an ra ngoại quốc làm bình phong chuyển tiền, lập
đầu cầu cho các lãnh đạo “hạ cánh an toàn” một khi có cách mạng lật đổ chế độ
Cộng Sản hiện tại. Nhưng trên hết tất cả, Bắc Bộ Phủ đang tung chiến dịch đánh
phá Công Giáo một cách tàn độc.
Ngoài việc dùng du đãng tấn công người Công
Giáo ở quê nhà, chiếm nhà thờ, chiếm đất nhà chung, biến nhà thờ thành trại
giam, Cộng Sản Việt Nam đang lợi dụng bóng tối của diễn đàn “ảo”, gửi ra hải
ngoại những bản tin, những bài viết công kích Công Giáo một cách điên cuồng. Vì
không sợ ai nhận diện, nên chúng tha hồ viết những lời phân tích ngớ ngẩn, với
luận điệu ấu trĩ của bọn lưu manh làm nhức đầu những ai theo Chúa. Chúng cho
rằng:
“Công Giáo toàn là những kẻ phản quốc, cuồng tín, ngu muội nên mới tin
rằng Mẹ Maria Đồng Trinh, Vatican luôn có mộng thống trị Việt Nam, hình ảnh
Chúa Trời chỉ là bánh vẽ của Tây Phương, dùng để lung lạc những người dân thiếu
học, Vatican chỉ dụ dỗ được những kẻ ngu si…” Thâm chí, chúng còn viết những
điều bậy bạ kinh khủng về phái tính của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Chúng tưởng làm
như vậy, sẽ gây hoang mang cho tín hữu, khiến người ta bỏ đạo, hoặc mất lòng
tin vào Chúa. Như thế số tín đồ sẽ kém đi, hoạt động của dân Chúa sẽ nhỏ đi.
Đồng thời, chúng mong rằng những người không Công Giáo sẽ chán chê đạo Chúa, mà
tiếp tay với chúng mạ lị đạo Chúa luôn. Nếu được như thế, thì sự đoàn kết Tôn
Giáo sẽ bị phá vỡ, tiến trình Tự Do - Dân Chủ của đất nước sẽ bị chậm lại, đủ
cho những kẻ lãnh đạo “hạ cánh an toàn” ở một quốc gia nào đó với hàng tỷ đô la
trong tay.
Theo lẽ, một khi bị bọn lưu manh này tấn công trên diễn đàn, người có tín
ngưỡng phải im lặng xóa tên chúng, mặc kệ cho chúng lải nhải mãi một luận điệu
côn đồ này đến khi không ai trả lời nữa thì đòn phá đám của chúng sẽ vô hiệu.
Bài này chỉ để
chứng minh rằng niềm tin vào Chúa không phải chỉ có từ những kẻ ngu muội.)
1-Bede, the
Venerable (c.672–735), tác giả cuốn "Time and its Reckoning”. (Thời gian
và sự Phán đoán), trong đó nói lên những nhận thức của ông về vũ trụ và Thiên
Chúa một cách sắc bén.
2-Hunayn ibn
Ishaq (c. 809-873), nhà vật lý người Assyrian, viết lại những công việc khoa
học của người Hy Lạp và tác giả cuốn “Mười điều liên hệ đến Nhãn khoa.”
3-Pope
Sylvester II (c.950–1003), khoa học gia và người sưu tầm sách, dậy Toán và
Thiên Văn học.
4-Hermann of
Reichenau (1013–1054), viết về Hình học, Toán học, và khoa “đo vị trí của tinh
tú”.
5-Robert
Grosseteste (c.1175–1253) người sáng lập ra những kiến thức về khoa học cho
trường Oxford, viết nhiều về khoa học thiên nhiên, toán, thiên văn học, quang
học, và hình học; người áp dụng phương pháp thực nghiệm để chứng minh thay vì
dùng lý luận.
6-Albertus
Magnus (c.1193–1280) người đầu tiên cô lập được chất độc “arsenic”
7-Roger
Bacon (c.1214–1294), người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp
khoa học tân tiến. Viết về Luật Thiên Nhiên, cơ khí, địa lý và quang học.
8-Theodoric
of Freiberg (c.1250–c.1310), người đầu tiên giải thích về hiện tượng Cầu Vồng.
9-Thomas
Bradwardine (c.1290–1349), người dẫn đến các nguyên tắc quan trọng của Cơ Khí
học.
10-Nicole
Oresme (c.1323–1382), Giám Mục thành Lisieux, người tìm ra nguyên tắc của sự
Chiết Quang (phân tích về ánh sáng).
11-Michael
Servetus (1511-1553) Người chứng minh sự tuần hoàn của phổi.
12-Michael
Stifel (c. 1486-1567) người phát triển các “đường cong toán học Logarithms.
13-William
Turner (c.1508–1568), cha đẻ của “thực vật học” và “điểu loại học”
14-Bartholomaeus
Pitiscus (1561–1613) cha đẻ của Lượng Giác học.
15-John
Napier (1550–1617), toán học gia người Scottish, được coi là cha đẻ của
Logarithms cũng như cách dùng thập phân.
16-Johannes
Kepler (1571–1630) Nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà.
17-Laurentius
Gothus (1565–1646) Giáo sư về Thiên văn học và Lý thuyết.
18-Galileo
Galilei (1564–1642) Người phát kiến ra việc trái đất quay quanh mặt trời.
19-René
Descartes (1596–1650) Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến. Người
hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa học của phương Tây.
20-Anton
Maria Schyrleus of Rheita (1597-1660) Nhà thiên văn học, đã dâng hiến công
trình của mình cho Mẹ Maria Đồng Trinh.
21-Blaise
Pascal (1623–1662) Thần đồng toán học, vật lý, và Lý Thuyết. Người sáng tác câu
nói bất hủ: “Khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa. Khoa học tinh vi
làm cho người ta gần Thiên Chúa”. Và, “Con người chỉ là cây sậy có tư tưởng.”
22-Isaac
Barrow (1630-1677) Nhà khoa học và toán học nổi tiếng của nước Anh.
23-Robert
Boyle (1627–1691) Khoa học gia và Lý thuyết gia, người cho rằng nghiên cứu khoa
học có thể làm vinh danh Thiên Chúa..
24-Isaac
Newton (1643–1727) Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại.
25-Louis
Pasteur (1822 - 1895) Người sáng chế ra phương pháp khử trùng, nhà hóa học, và
vi khuẩn học, đã giải trừ vấn nạn của bệnh chó dại, tiêu chẩy gà, bệnh của tằm,
và người đầu tiên tạo ra việc chích ngừa.
26-George
Jackson Mivart (1827 - 1900) Hàn Lâm về Thực Vật Học, người nổi tiếng về Thực
Trùng Học đồng thời cũng là người chỉ trích Charles Darwin mãnh liệt.
27-John
Ambrose Fleming (1849 - 1945) Viết về Luật của Tay Phải và nghiên cứu về Bình
Chân Không.
28-Max
Planck (1858-1947) Đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của thuyết Quantum
mechanics.
29-Robert
Millikan (1868–1953) Đoạt giải Nobel về Vật Lý, viết sách về sự dung hòa giữa
tôn giáo và khoa học.
30-Arthur
Compton (1892–1962) Đoạt giải Nobel về Vật Lý.
31-Georges
Lemaître (1894-1966) Linh mục Công Giáo, người khai phá ra thuyết Big Bang. eton Hall University, New
Jersey, đoạt giải Templeton Prize.
32-Arthur
Peacocke (1924-2006) Nhà thực vật học, khoa trưởng trường Clare College,
Cambridge, đoạt giải Templeton năm 2001.
Chu Tất Tiến
Neu khong co Thien Chua thi da khong co toi vi toi duoc sinh ra la do tinh yeu thuong cua Ngai. Chi co nhung ke ngu xuan moi khong tin co thien Chua ! where did they come from??? from nothing???
ReplyDeleteChỉ có những đứa ngu xuẩn mới tin vào cái thằng jesu láo khoét!!! How is that for insulting people who don't believe what you believe???
DeleteThiên Chúa sinh ra chúng sanh, vậy ai là đấng sinh ra Thiên Chúa? Không lẽ TC tự sinh ra mình như vũ trụ hình thành từ vụ nổ Big Bang? Cái vòng luẩn quẩn con gà và cái trứng không biết đâu là điểm khởi đầu. John Tornado tin thì cứ tin, đừng nói người khác ngu xuẩn. Chỉ có kẻ ngu xuẩn mới tạo ra cơn lốc xoáy làm khổ nhân sinh! Mọi sự trên đời đều do duyên sinh. Chửi người thì bị chửi lại. Không chửi chẳng ai nói đến mình. Không có gió xoáy, vạn vật an vui.
ReplyDeleteBạn nói thật là chính xác! "Muôn vật từ duyên sinh. Lại tùy duyên mà diệt. Bật giác ngộ (Đức Phật) tuyệt vời, đã từng như vậy thuyết."
Deletechỉ có kẻ chửi và kích bát tôn giáo kẻ đó mới đúng là kẻ ngu xuẩn
ReplyDelete