Ứng viên tổng thống
của đảng Cộng hòa Donald Trump.
Hiện tượng Donald
Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ hiện nay là một trường hợp lạ lùng. Bình
thường, người dân đòi hỏi các ứng cử viên phải có nhiều kinh nghiệm chính trị
và lãnh đạo, đằng này Trump chỉ là một doanh nhân lần đầu tiên ra tranh cử, vậy
mà mức độ ủng hộ của dân chúng, ít nhất cũng là những người thuộc đảng Cộng
Hoà, lại càng ngày càng tăng.
Bình thường, các ứng cử viên chỉ cần ăn nói hớ
hênh một chút là bị mất điểm ngay tức khắc, đằng này Trump hầu như thường xuyên
ăn nói bỗ bã và bậy bạ, vậy mà mức độ ủng hộ đối với ông dường như không hề sút
giảm. Bình thường, trong xã hội Mỹ, người ta lên án việc kỳ thị chủng tộc, kỳ
thị tôn giáo cũng như kỳ thị phái tính, vậy mà, với Trump, một người nhiều lần
công khai bày tỏ sự kỳ thị trong cả ba lãnh vực, người ta lại thấy… không có gì
quan trọng.
Tại sao có hiện tượng
lạ lùng như vậy?
Trên báo chí Mỹ, hầu
hết các nhà bình luận chính trị đều chê bai Trump. Chê về nhân cách: Ông không
phải là người nghiêm túc, đứng đắn, thật thà, có thể tin cậy được. Chê về tài
năng: Ngoài chuyện kinh doanh, ông không hề có một quan điểm hay sách lược
chính trị nào rõ ràng, đừng nói là sáng suốt. Tất cả những lời hứa hẹn của ông
trước quần chúng chỉ là những lời nói bừa, cho sướng miệng, cốt để mị dân, chứ
không hề có chút giá trị thực tế nào cả.
Chê thì chê, nhưng
không ai có thể phủ nhận được sự thật này: Trong các ứng cử viên thuộc đảng Cộng
Hoà, cho đến nay, Trump là người nắm bắt được tâm lý quần chúng giỏi nhất. Và
ông cũng thành công nhất trong việc đáp ứng cái tâm lý ấy.
Tâm lý ấy là gì?
Đó chính là sự sợ
hãi.
Thật ra, trong mọi
xã hội, ở thời nào cũng vậy, bao giờ con người cũng sợ hãi một điều gì đó. Và
chính trị, từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, thường xây dựng trên nền tảng của
sự sợ hãi. Ví dụ cho nhận định ấy rất nhiều. Chỉ trong hơn một thập niên gần
đây thôi, kể từ sau cuộc khủng bố nhắm vào nước Mỹ vào năm 2001, chính quyền
George W. Bush đã khai thác ngay sự sợ hãi của dân chúng để tiến hành hai cuộc
chiến tranh ở Afghanistan và Iraq.
Sau mấy năm, trong khi nỗi sợ hãi khủng bố
đã phần nào phai nhạt, dân chúng Mỹ lại thêm một nỗi sợ hãi khác: sợ bị sa lầy ở
Trung Đông. Chính từ nỗi sợ ấy, người ta đã bầu cho Barrack Obama, người phản đối
cả hai cuộc chiến tranh tại Afghanistan và Iraq, hơn nữa, còn hứa hẹn sẽ rút
quân ra khỏi hai quốc gia ấy sớm.
Còn bây giờ? Sau cuộc khủng hoảng kinh tế từ
năm 2008, cho đến bây giờ vẫn chưa hồi phục hẳn, điều người ta sợ nhất là mất
việc làm. Dưới mắt giới lao động bình dân Mỹ, vấn đề công ăn việc làm của họ đối
diện với nguy cơ bị cướp mất bởi những di dân và xu hướng toàn cầu hoá, theo
đó, các công ty đua nhau lập chi nhánh ở nước ngoài để khai thác nguồn nhân
công rẻ. Bởi vậy khi Donald Trump tuyên bố trục xuất hết những di dân bất hợp
pháp tại Mỹ cũng như ngăn chận việc thuê mướn công nhân ngoại quốc, nhiều người
hoan nghênh nhiệt liệt. Người ta biết Trump không giỏi về chính trị nhưng lại
tin là ông giỏi về kinh tế nên hy vọng ông sẽ làm được những gì ông hứa hẹn.
Tuy nhiên, đó là
chuyện ở Mỹ. Với chúng ta, quan trọng hơn là chuyện của Việt Nam. Theo tôi, thủ
đoạn để củng cố quyền lực của đảng Cộng sản hiện nay cũng được xây dựng trên sự
sợ hãi.
Có ba sự sợ hãi
chính.
Thứ nhất, với thành
phần cốt cán của chế độ, từ cán bộ, công an, quân nhân, kể cả những người đã hoặc
sắp về hưu, người ta khai thác nỗi sợ mất quyền lợi. Câu khẩu hiệu “Còn đảng,
còn mình” được đặt ra để đánh vào tâm lý ấy. Sợ mất quyền lợi, người ta phải lo
bảo vệ đảng.
Trong một bài phát biểu trước cả mấy trăm cán bộ trong ngành giáo
dục ở Hà Nội vào năm 2012, Đại tá Trần Đăng Thanh, thuộc Học viện chính trị Bộ
Quốc phòng, đã khai thác nỗi sợ “mất sổ hưu” để kêu gọi mọi người chống lại cái
gọi là “diễn biến hoà bình” có thể làm sụp đổ chế độ. Từ khi bài
nói chuyện của Trần Đăng Thanh được công bố trên các trang mạng, người ta chê
trách ông nhảm nhí. Tuy nhiên, tôi nghĩ, ông không nhảm nhí. Ông chỉ thật thà
nói lên những tính toán của đảng: dùng sự sợ hãi để giữ sự trung thành của mọi
người.
Thứ hai, với dân
chúng, người ta khai thác nỗi sợ mất ổn định. Bộ máy tuyên truyền tại Việt Nam
thường xuyên sử dụng chiêu bài ổn định để, một là, trì hoãn quá trình dân chủ
hoá; và hai là để biện minh cho thái độ nhu nhược trước những hành động gây hấn
ngang ngược của Trung Cộng. Họ cho việc dân chủ hoá và đa nguyên hoá về chính
trị sẽ dẫn đến những bạo loạn trong xã hội và hậu quả là kinh tế đất nước sẽ kiệt
quệ, đời sống mọi người sẽ khó khăn và cùng quẫn hơn hẳn.
Chuyện quan hệ với
Trung Cộng cũng thế. Họ cho cần phải nhường nhịn Trung Cộng để bảo vệ ổn định.
Quá cứng rắn với Trung Cộng để bảo vệ chủ quyền trên biển và đảo sẽ gây nên chiến
tranh và chiến tranh sẽ làm cho mọi người cùng khổ.
Thứ ba, cũng với dân
chúng, người ta khai thác nỗi sợ công an. Lâu nay công an vẫn thường đánh những
người biểu tình, tra tấn đến chết một số người trong trại giam. Dân chúng phản
đối. Chính quyền vẫn phớt lờ. Khi bị kiện cáo, người ta chỉ xử lấy lệ. Có vẻ
như chính quyền cố tình dung dưỡng những hành động tàn ác ấy. Để làm gì? Chủ yếu
là để dân chúng sợ công an; và vì sợ, không dám chống đối lại chế độ.
Có thể nói cho đến
nay, chế độ cộng sản tại Việt Nam còn vững mạnh là nhờ được xây dựng trên những
nỗi sợ hãi ấy.
Khi sự sợ hãi không
còn, chế độ cũng sẽ bị sụp đổ.
Tiến sĩ Nguyễn Hưng
Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.