Gần đây tôi có nghe các
thầy cô giáo giảng dạy từ bậc tiểu học
cho đến đại học than phiền về sự lo ra và mất tập trung của phần lớn những em học
sinh, sinh viên trong lớp học. Các em dường như mất khả năng kiên nhẫn và dễ trở
nên mau chán. Giáo sư, khoa học gia chuyên môn nghiên cứu về sự nhận thức,
Daniel William, lý luận rằng “Tôi nghĩ không phải các em không có khả năng tập
trung mà các em cảm thấy không muốn hay không đáng bỏ công và nỗ lực vào việc học
tập.”
Vấn
đề chúng ta thấy ở đây là nếu các em ưa thích điều gì thì rất chú tâm vào việc đó,
ngoài ra không muốn làm những việc không cảm thấy thú vị hay bị bắt buộc phải làm.
Khi buồn chán, các em
thường tìm kiếm những việc thú vị khác để làm. Cái gần tầm tay nhất vẫn là việc
sử dụng smart phone(điện thoại thông minh) là một máy tính thu nhỏ mà cũng là một
dụng cụ truyền thông (social media) . Nó giúp các em trò chuyện, chơi games, đọc
sách, tìm thông tin tài liệu để làm bài tập, nghe nhạc và biết bao tiện lợi khác.
Tuy nhiên tính tiêu cực của những dụng cụ truyền thông này cũng nhiều không kém.
Nó khiến các em không tập trung được trong việc học hành. Các em có thể tiếp xúc
với các người xấu trên mạng.
Các trang tình dục đầy rẫy ở đó, bao gồm việc có
thể làm con mồi cho các kẻ sát nhân hay săn tìm tình dục kể cả các thầy cô giáo
xấu. Ngoài ra internet còn là nơi các em bị bạn bè tấn công hay bắt nạt dễ dàng
nhất. Do đó, social media đã bị ngăn cấm
dùng trong lớp học, có nơi cho phép nhưng phải dưới quyền kiểm soát và quan sát
của các thầy cô giáo. Luật thì cấm, các em vẫn lén lút dùng vì sức lôi cuốn của
nó rất mãnh liệt. Ngày nay, chính người lớn chúng ta hàng ngày, cũng bị gắn chặt,
cuốn hút vào chiếc điện thoại thông minh cầm tay nói gì các em.
Ngoài lý do chán học,
những áp lực của đời sống, ngày càng đè nặng lên các em và các giáo chức ngoài
xã hội cũng như trong học đường. Các cuộc thi giáo dục được đặt ra trong các
trường học ở Hoa Kỳ là một áp lực lớn. Các em tiểu học phải thi test hàng tuần,
hàng tháng, hàng năm và toàn quốc nữa. Những luật lệ liên bang Hoa Kỳ gần đây đòi
hỏi nhà trường phải theo dõi tiến trình học tập của các em gắt gao bằng các cuộc
thi trắc nghiệm được gọi là test.
Ngoài ra các học khu và tiểu bang còn kèm thêm
các test khác cùng test của liên bang. Trung bình một học sinh phải lấy 20 cuộc
thi đánh giá và 10 cuộc thi trắc nghiệm mỗi năm từ lớp 3 cho tới lớp 8. Theo một
cuộc nghiên cứu của the Council of the Great City Schools, các học sinh phải trải
qua trung bình 113 cuộc thi có tiêu chuẩn từ lớp mầm non cho tới lớp 12. Riêng
lớp 11, trong 1 năm có tới 27 ngày test hoặc 15% của một năm học, chưa kể các
cuộc thi chuẩn bị cho các trường kỹ thuật chuyên môn và chuẩn bị vào đại học.
Thầy cô bị test hành và
áp lực này trực và gián tiếp đổ lên đầu các em. Các em phải trực diện với nỗi
lo học thi. Từ lúc sửa soạn. cho đến ngày thi, thật sự là những chuỗi hồi hộp, âu
lo thường xuyên. Đặc biệt là các học sinh Việt Nam hay Á Đông, còn phải học thêm
nhiều môn khác ngoài những giáo dục hàn lâm ở trường. Cũng do việc các bậc phụ
huynh vì muốn các em bận rộn, biết thêm những kỹ năng sống khác, họ đã không ngại
ngần bỏ tiền, thì giờ, công sức chở các em đi học thêm các môn khác, như đàn, vũ, hát,
bơi lội, võ thuật, hội hoạ.. v..v..Dĩ nhiên để đạt kết quả mong đợi, sức ép từ
cha mẹ do việc bắt buộc tập tành cho các lớp học thêm này bỗng trở nên một gánh
nặng mới. Tuy việc học đó giúp ích các em nhiều, nhưng chính nó lại góp phần vào
tiêu tốn một số thời gian và tạo thêm áp lực trong sinh hoạt hàng ngày của các
em.
Trong khi những quyến
rũ của Ipad, Games on line, face book, twitter , texting đang chờ đợi, thế là các
em chỉ muốn làm bài vở cho nhanh, cho có, để có chút thì giờ vui chơi và giải
trí. Sau khi dùng óc để nhớ và làm bài tập, các em bắt đầu giải trí với Games và
các thiết bị điện tử khác. Các trò chơi điện tử bắt đầu óc và đôi mắt các em hoạt
động một cách chăm chú, liên tục, tận lực, chỉ sau vài giờ là tâm trí các em mệt
nhoài.
Thời đại ngày nay là
thời đại của bận rộn, của “multi tasking” tức “đa nhiệm”, là làm nhiều việc
trong một lúc. Ai cũng vậy, khi làm một việc, ta dễ tập trung hơn. Làm một lúc
hai ba bốn việc, sự hoàn hảo rất khó. Các em bây giờ có thói quen làm một lúc
hai ba việc, vừa làm bài tập, vừa nghe nhạc, vừa texting, vừa chat trên face
book. Làm sao không có thiếu sót hay lỗi
lầm. Một khi mắc vào thói quen làm hai ba việc một lúc, khi ngồi tập trung vào
một việc, ngược với thói quen, các em sẽ dễ mau chán. Nhất là khi không thể tập
trung, đầu óc sẽ bay nhảy lung tung, học hành khó đạt kết quả.
Nếu đời sống chịu áp lực
kéo dài hay sức khoẻ tinh thần các em yếu, các em dễ lâm vào tình trạng lo âu,
hồi hộp, trầm cảm mà khoa tâm lý học liệt vào bệnh lo âu(anxiety) hay rối loạn
lo âu (anxiety disorder) .
Ngày nay, các em sinh
viên là những người chịu áp lực chung quanh cuộc sống nhiều hơn cả. Ngoài việc
học để trau dồi kiến thức chuyên môn cho con đường hướng nghiệp, có em còn phải
đối đầu với vấn đề tài chánh và mưu sinh. Sự chán nản sẽ tăng cao khi các em rơi
vào trạng thái mất định hướng cho tương lai. Không biết theo học ngành nghề nào,
khi ra trường có tìm được việc làm không? Những ngành hái ra tiền thì khó học và
đòi hỏi bằng cấp cao, trong khi năng lực của mình không thể kham nổi. Ngành dễ
học thì khó tìm việc hoặc không tìm ra việc.
Trong khi học phí ngày càng cao ngất
ngưởng, ghi danh phải chờ đợi vì lớp học thiếu thốn.
Để tốt nghiệp, thời gian học
đại học bây giờ kéo dài hơn ngày xưa vì nhiều lý do. Ngoài ra vì thích sống tự
lập hay cha mẹ bắt ra riêng khi các em tới tuổi trưởng thành 18 hay 21, nhiều
em phải đi làm toàn thời gian hay bán thời gian để có thể ra riêng và lo cho cuộc
sống. Áp lực bỗng trở nên nặng như núi với các thanh thiếu niên sinh viên mới
bước ra đời. Số sinh viên học sinh sau 18 tuổi chọn giải pháp ở chung với gia đình
bây giờ rất nhiều. Các phụ huynh ngày nay cũng không nỡ đuổi con cái ra khỏi nhà,vẫn
phải cưu mang khi chúng không tìm ra việc làm hay không có nơi nương tựa.
Con số sinh viên mắc bệnh
tâm thần phải điều trị tăng nhanh hơn bao giờ hết. Một phần ba trong số các
sinh viên đại học trong những năm qua đã gặp khó khăn trong việc ứng phó đến nỗi
bị các căn bệnh như trầm cảm hoặc tối loạn lo âu. Theo báo cáo năm 2013 của
National College Health Assessment. Có 120 ngàn sinh viên trên 150 đại học toàn
quốc Hoa Kỳ bị mắc bệnh trên sau khi giám định.
Biểu đồ Student under pressure
Một thống kê khác là
tiếng chuông báo động lớn hơn. Trong những năm qua, có hơn 30% sinh viên tìm đến
bác sĩ tâm thầm điều trị với tình trạng nghiêm trọng vì các em có ý định hay đã
từng tự tử. Bác sĩ tâm thần Ben Locke, ở đại học Pennsylvania State University,
tiết lộ, “Đến năm 2014 con số sinh viên muốn kết liễu đời mình tăng thêm khoảng
24 % nữa.” Ông cũng là giám đốc trung tâm Collegiate Mental Health(CCMH). Đây là
một tổ chức gom góp những dữ liệu sức khoẻ y tế tâm thần từ hơn 230 đại học hoặc
các trung tâm y tế tâm thần khắp nơi gởi về.
Những người làm việc
trong ngành cố vấn trong vòng một thập niên qua đã không ngừng róng chuông báo
động liên tục rằng đang có chuyện gì bất thường đang xảy ra cho các sinh viên về
sức khoẻ tâm thần của họ. Bác sĩ Lock thêm,
“Với báo cáo năm nay(2015), chúng ta có thể khẳng định rõ ràng là các em
đã và đang có vấn đề tâm thần”.
Biểu đồ College and University counseling center
presenting concerns
Một trong những lý do gia
tăng dễ hiểu nhất là vì con số sinh viên ghi danh học đại học ngày nay gia tăng.
Cộng thêm con số sinh viên trước đây mắc những bệnh như trầm cảm(depression), tâm
thần phân liệt(schizophrenia), thiếu chú ý và quá hiếu động(ADHD) hay tự kỷ(autism),
được cho phép vào đại học nhờ sự chữa trị và thuốc thang. Tuy nhiên khi chấp nhận
những thanh thiếu niên trẻ này thì hẳn nhiên sẽ có nhiều sinh viên hơn tìm đến
trung tâm cố vấn cho bệnh tâm thần.
Vai trò cha mẹ rất cần
thiết trong việc phát hiện và giúp đỡ các em nếu các em có bệnh.
Đối với các chứng
bệnh mới phát triển hay còn nhẹ, các phụ huynh cần chú ý tìm ra triệu chứng của
các em để giúp đỡ. Khi phát hiện ra bệnh trạng, cần phải đưa đến các bác sĩ tâm
lý hay tâm thần ngay để khám nghiệm. Gần gũi và trò chuyện với các em sẽ dễ hiểu
được các em có gặp khó khăn trong cuộc sống hay không. Xin được trình bày thêm
về các phương pháp giúp đỡ các em học sinh, sinh viên về vấn đề này trong một bài
khác.
Trịnh Thanh Thủy
Tài liệu tham khảo
Do students take too
many tests? Congress to weigh question
http://www.pbs.org/newshour/rundown/congress-decide-testing-schools/
Surveys show
increase in stress among college students
https://news.fiu.edu/2015/04/surveys-show-increase-in-stress-among-college-students/86911
Teens feeling
stressed, and many not managing it well
http://www.usatoday.com/story/news/nation/2014/02/11/stress-teens-psychological/5266739/#
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.