TS. Nguyễn Thị Từ
Huy cho rằng có vấn đề về mặt đạo đức nếu một thể chế một đảng, và chế độ
chuyên chính nắm quyền lực độc tôn quá lâu dài.
Việc nắm giữ quyền lực
chính trị một cách độc tôn và quá lâu dài trong xã hội ngày nay có thể là một vấn
đề về đạo đức đối với những chủ thể độc quyền quyền lực trong các thể chế một đảng
và chế độ chuyên chính, theo một nhà nghiên cứu triết học chính trị từ Paris,
Pháp.
Một chính thể 'độc
tài độc đảng' ngày nay, để bảo tồn quyền lực chính trị, có thể rơi vào trường
hợp 'vi phạm đạo đức', khi dùng Hiến pháp để quy định quyền lãnh đạo tuyệt đối
và bất biến của đảng mình, vẫn theo ý kiến này.
Trong cuộc phỏng vấn
qua văn bản dành cho BBC hôm 23/4/2016, Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy, nhà nghiên cứu
chính trị - xã hội Việt Nam, từ Đại học Paris Diderot, Pháp cũng đưa ra cảnh
báo về hậu quả xã hội đối với một nền thống trị 'độc tài toàn trị' nếu sử dụng
thủ đoạn 'nói dối' để nắm, giữ quyền lực.
"Dối trá mang
tính chất căn nguyên của chế độ, một chế độ mà Hiến pháp tuyên bố rằng nhân
dân có quyền làm chủ, nhưng quyền lực lại chỉ thuộc về một đảng chính trị duy
nhất. Và sự dối trá này sẽ dẫn tới đâu?", Tiến sĩ Từ Huy đặt vấn đề.
"Dẫn tới sự xói
mòn dần tất cả các tiêu chuẩn đạo đức, sự sụp đổ mọi tiêu chí của sự tử tế, và
sự hủy diệt trên diện rộng niềm tin vào những giá trị như sự thật, trung thành
với nguyên tắc, sự thật thà, vị tha và danh dự..."
Vì sao còn tồn tại?
Mở đầu cuộc trao đổi
với BBC, nhà nghiên cứu triết học chính trị trả lời câu hỏi: Tại sao các
thể chế được cho là các nền độc tài, và chế độ chuyên chính vẫn còn tồn tại
ngày nay ở một số nơi trên thế giới, hay là vì vẫn có những hình thức ‘độc tài’
hay ‘chuyên chính’ chấp nhận được với nhân loại?
Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ
Huy: Để trả lời câu hỏi này của ông cần phải làm một seminar nhiều kỳ, do tính
phức tạp của vấn đề. Ở đây tôi xin phép chỉ nêu một trong số các nguyên nhân
khiến cho các nền độc tài vẫn đang tiếp tục tồn tại. Nguyên nhân này không phải
do tôi tìm ra, mà nó đã được trình bày trong bản luận văn nổi tiếng,
"Luận văn về sự nô lệ tự nguyện" (Discours de la servitude
volontaire), được Etienne de La Boétie viết vào thế kỷ XVI. Tôi nhắc lại nguyên
nhân này, vì nó vẫn còn đúng cho cả thế giới hiện tại nơi chúng ta đang sống.
Tranh cãi về công tội
của các nhà độc tài và các chế độ chuyên chính mà họ nắm giữ có thể sẽ còn kéo
dài trong lịch sử nhân loại.
Etienne de La Boétie
đưa ra câu trả lời cho chính cái câu hỏi mà ông đặt ra cho tôi ngày hôm nay.
Chàng trai 18 tuổi ấy viết luận văn này nhằm tìm hiểu một hiện tượng xã hội
đã khiến cho một đầu óc tự do vô cùng ngạc nhiên: đôi khi trong lịch sử nhân
loại đã xảy ra việc hàng bao nhiêu con người, bao nhiêu đô thành, bao nhiêu quốc
gia lại chịu phục tùng một kẻ chuyên chế duy nhất, trong khi mà kẻ đó chỉ có
thể có quyền lực khi những người bị áp bức chấp thuận trao quyền ấy cho hắn,
và bao nhiêu người đã trao quyền lực cho kẻ chuyên chế để hắn làm hại mình.
Thật ngạc nhiên khi thấy hàng triệu, hàng triệu người bị chế ngự, cam chịu
cúi đầu phục tùng một người duy nhất. Tại sao có thể xảy ra một chuyện như
vậy ?
Câu trả lời mà La
Boétie tìm ra nằm ở trong mấy chữ này: "sự nô lệ tự nguyện". Ông chỉ
ra rằng sức mạnh của kẻ bạo chúa được thiết lập trên sự hèn yếu và khiếp nhược
của những người tự nguyện chấp nhận ách cai trị của hắn. Chính là do được những
người dân tình nguyện ủng hộ mà kẻ độc tài có thể củng cố và mở rộng quyền
lực vô giới hạn của hắn.
La Boétie viết:
"Chính là nhân dân đã tự nguyện chịu khuất phục và tự cắt cổ mình."
"Nếu mọi người không tuân lệnh nữa thì kẻ chuyên chế sẽ thất bại."
Điều quan trọng mà
La Boétie chỉ ra là: Nhân dân không cần phải đấu tranh, không cần dùng tới bằng
bạo lực, chỉ cần không phục tùng, không tuân lệnh thôi là chế độ độc tài đã
không thể tồn tại được nữa.
Chẳng phải điều này
ngày nay vẫn đúng hay sao ? Hãy nhìn vào một sự việc vừa xảy ra:
Hội nghị cử
tri và hiệp thương vòng 3 của bầu cử Quốc hội kỳ này. Chẳng phải những người
dân địa phương, và nhất là ban tổ chức bầu cử địa phương, Mặt trận Tổ quốc,
đã tuân lệnh trên và dùng thủ đoạn để loại gần như tất cả ứng viên tự do, kể cả
những người mà uy tín trong cộng đồng dân cư là không thể phủ nhận, và nếu
xét từ quan điểm của chính quyền, họ không bị xếp vào hàng ngũ bất đồng, như Trần
Đăng Tuấn, Nguyễn Cảnh Bình (việc cử tri của Nguyễn Cảnh Bình làm kiến nghị về
kết quả bỏ phiếu là một việc có rất nhiều ý nghĩa)?
Trong khi nếu người
dân và Mặt trận Tổ quốc bỏ phiếu cho những người đó thì họ cũng chẳng mất gì,
có chăng chỉ mất xiềng xích nô lệ.
Thông tin về sự
kiện này đã có nhiều, không cần phải nhắc lại. Ở đây, khi đề cập đến điều này
tôi chỉ muốn xác nhận rằng những gì mà La Boétie nói từ thế kỷ XVI vẫn còn
đúng cho thế giới hiện nay. Chỉ cần công dân làm đúng bổn phận của mình, chỉ
cần như thế thôi (chứ không cần phải dùng đến bạo lực) thì quyền lực độc tài
đã có thể bị vô hiệu hóa. Và cũng chẳng ai có thể trừng phạt họ được, bởi chẳng
có lý do gì để trừng phạt họ khi họ làm việc theo bổn phận và lương tâm.
Nhưng thực tế thì La Boétie nói hoàn toàn chính xác: quyền lực độc tài được củng
cố bởi vì mọi người bị chìm đắm trong "sự nô lệ tự nguyện".
Cũng theo La Boétie,
muốn thoát khỏi sự nô lệ tự nguyện này, để đi tới thoát khỏi ách cai trị của
kẻ độc tài, chỉ cần có một điều thôi: chỉ cần nhân dân muốn có tự do. Chỉ cần
có ý muốn tự do.
Tại sao La Boétie
cho rằng chỉ cần người dân muốn có tự do là đủ để khiến cho hệ thống độc tài
sụp đổ ? Có lẽ chúng ta sẽ trở lại với ý tưởng này vào một dịp khác.
Sản phẩm của 'cầm
tù'?
BBC: Phải chăng
thể chế, chế độ độc tài, ở một góc độ nào đó, là sản phẩm của tư duy bị ‘cầm
tù’ và sự cầm tù của tư duy con người?
Một người dân Trung Cộng cầm trong tay một bức hình của cố Chủ tịch Trung Cộng Mao Trạch Đông với
dòng chữ đề "Phụng sự nhân dân" bên ngoài một Văn phòng tiếp người
dân khiếu nại.
Trở lại với vụ việc
hội nghị cử tri và hiệp thương vòng 3 của bầu cử Quốc hội ta sẽ thấy rằng:
Khi ta chứng kiến những người dân ở một xã nghèo không bầu cho luật sư Lê
Luân, với những lý do hết sức ấu trĩ, do bị ảnh hưởng bởi hệ thống tuyên truyền
các cấp, ta có cảm giác gần như là xót xa, bởi họ bị giới hạn trong một nhận
thức nhất định nên mới làm như vậy.
Hiện tượng người
dân ủng hộ chế độ độc tài do sự hạn chế của nhận thức có thể trùng hợp với
điều mà ông gọi là "tư duy bị cầm tù", xét từ phía nạn nhân, và
"sự cầm tù tư duy con người", xét từ phía những người cố tình tạo ra
xiềng xích cho tư duy của người dân. Điều đáng nói là những người muốn trói
buộc tư duy của người khác dường như không biết rằng chính tư duy của họ cũng
bị cầm tù.
Nhưng khi ta chứng
kiến cảnh đấu tố của những luật sư, của những người thuộc giới trí thức, khi
ta chứng kiến cảnh kiểm phiếu diễn ra trong một ngôi miếu hoang, bất chấp mọi
chuẩn mực hành chính, luật pháp, lương tâm và đạo lý, thì cảm giác được gợi
lên chắc chắn không còn là xót xa nữa, mà là phẫn nộ. Đó cũng có thể là phản ứng
xảy ra khi ta phải nghe những phát biểu của một đại biểu Quốc hội nhấn mạnh
"cái hay" của hoạt động vi hiến do Quốc hội khóa 13 thực hiện khi
bãi nhiệm toàn bộ chính phủ không có lý do.
Trong những trường hợp
này, vấn đề không còn ở chỗ "tư duy bị cầm tù" nữa, mà vấn đề phải được
gọi tên đúng như cách mà Hannah Arendt đã gọi (khi bà lý giải vì sao chủ nghĩa
toàn trị có thể vận hành): sự vô liêm sỉ.
Sự vô liêm sỉ của những
người tạo nên cái mạng lưới hỗ trợ cho trung tâm quyền lực toàn trị. Vô liêm sỉ,
bởi những người đó hiểu rõ sự thối nát và phản nhân đạo của hệ thống, nhưng vẫn
bảo vệ nó bất chấp sự hiểu biết của chính họ.
Vậy, để trả lời câu
hỏi này của ông, có thể nói, chế độ độc tài là sản phẩm kết hợp giữa kiểu tư
duy nô lệ và sự vô liêm sỉ của những người hưởng lợi từ hệ thống. Theo La
Boétie thì hai yếu tố này có liên quan đến nhau, trong một chừng mực nào đó,
cái này là nguyên nhân của cái kia: Thói hám lợi và sự vô liêm sỉ dẫn đến tư
duy nô lệ, và ngược lại.
BBC: Một nền độc
tài kéo dài trên dưới một thế kỷ, hay gần như thế, trong thế giới ngày nay, mà
không cho phép một lực lượng chính trị nào khác trong nhân dân và xã hội được cạnh
tranh chính thức, hoặc chia sẻ quyền lực, thì có vấn đề gì đáng bàn về đạo đức
hay không?
Ông đặt vấn đề rất
đúng: điều đó quả là thuộc về phạm trù đạo đức. Các chế độ độc tài cổ điển,
mà La Boétie bàn đến trong bản luận văn đã nêu ở trên, khác với một số nền
độc tài trong thế giới đương đại của chúng ta ở điểm căn bản mà tôi sẽ đề cập
tới sau đây.
Những kẻ chuyên chế
cổ điển, dù đoạt được quyền lực theo cách nào (do được dân bầu lên, do dùng vũ
lực – thắng trận trong chiến tranh hoặc trong các cuộc tranh đoạt quyền lực,
do được kế thừa theo dòng dõi), và dù sử dụng quyền lực theo ý muốn cá nhân bất
chấp luật pháp, thì giữa lời nói và hành động cũng còn có sự trùng hợp. Bởi
vì những kẻ độc tài cổ điển quan niệm rằng mình có quyền lực tối cao, còn người
dân buộc phải phục tùng. Và nhân dân, một khi chấp nhận sự cai trị thì cũng
thừa nhận mình bị cai trị.
Điều này khiến cho
một vị vua như Louis XIV có thể tuyên bố: "Nhà nước chính là ta".
Như vậy, trung tâm quyền lực được xác định rõ, và kẻ độc tài tự nhận mình là
độc tài. Sự việc được gọi đúng tên của nó.
Đạo đức bị hủy diệt
Xã hội Việt Nam đang
trong một quá trình chuyển đổi, với nhiều giá trị, chuẩn mực đang được thiết lập
hoặc tái sắp xếp.
Nhưng một chính thể
độc tài độc đảng ngày nay, để bảo tồn quyền lực chính trị, có thể rơi vào trường
hợp vi phạm đạo đức, khi dùng Hiến pháp để quy định quyền lãnh đạo tuyệt đối
và bất biến của đảng mình. Mặt khác, cũng trong Hiến pháp, lại quy định rằng
nhân dân có quyền làm chủ, lại quy định rằng Nhà nước là của dân, do dân, và vì
dân.
Nghĩa là chính đảng
độc tài không thừa nhận tính chất độc tài của quyền lực do mình nắm giữ, và
muốn nhân dân tin rằng đây là một chính thể dân chủ trong đó người dân có quyền
tự do quyết định. Nhưng trên thực tế, nhân dân bị lệ thuộc vào quyền lực của
đảng độc tài. Như vậy, trung tâm quyền lực không được xác định rõ, và đảng
độc tài chối bỏ tính chất độc tài của mình. Sự việc không được gọi đúng tên
của nó.
Hiến pháp 2013 của
Việt Nam là một ví dụ điển hình cho trường hợp này. Điều 2 và điều 3 của Hiến
pháp này quy định quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng điều 4 lại quy định quyền
lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản. Những điều luật này, trên thực tế, loại
trừ nhau, điều luật này khiến cho điều luật kia bị vô hiệu hóa. Và điều
luật này sẽ khiến cho điều luật kia trở thành dối trá.
Nếu nhân dân có quyền
làm chủ thì quyền lãnh đạo của đảng cộng sản không thể là tuyệt đối và vĩnh
viễn. Bởi vì trong trường hợp này, nhân dân có thể lập nhiều đảng khác nhau và
có thể chọn bất cứ đảng nào làm lãnh đạo, theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu
đảng cộng sản có quyền lãnh đạo tuyệt đối và vĩnh viễn thì có nghĩa nhân dân
không có quyền chọn lãnh đạo cho mình. Trường hợp Việt Nam cho thấy điều 2 và
điều 3 Hiến pháp 2013 chỉ là những lời nói dối.
Vì thế, đúng như
cách đặt vấn đề của ông, việc một nền độc tài dùng hiến pháp để chính danh
hóa quyền lực của mình là một sự vi phạm đạo đức, do tính chất dối trá của nó.
Đây là sự dối trá mang tính chất căn nguyên của chế độ, một chế độ mà Hiến
pháp tuyên bố rằng nhân dân có quyền làm chủ, nhưng quyền lực lại chỉ thuộc về
một đảng chính trị duy nhất. Và sự dối trá này sẽ dẫn tới đâu?
Nó chỉ có thể
"dẫn tới sự xói mòn dần tất cả các tiêu chuẩn đạo đức, sự sụp đổ mọi tiêu
chí của sự tử tế, và sự hủy diệt trên diện rộng niềm tin vào những giá trị như
sự thật, trung thành với nguyên tắc, sự thật thà, vị tha và danh dự. Cuộc sống
- trong quá trình đồi phong bại tục như thế, tức là quá trình có xuất xứ từ việc
người ta mất hết mọi hy vọng và mất hết niềm tin rằng cuộc sống có một ý nghĩa
nào đó – phải chìm xuống mức tồn tại sinh học, chẳng khác gì cây cỏ. […] Giá phải
trả là tinh thần bị tê liệt, tình thương không còn và cuộc đời bị tàn phá. […]
Giá phải trả là sự khủng hoảng cả về mặt tinh thần lẫn đạo đức."
Kết luận này tôi
trích lại của Vaclav Havel, bởi ông ấy nói quá chính xác, nếu ta quy chiếu
nhận định này về thực tế của chúng ta ngày nay. Hãy nhìn những đàn cá đang chết
trên quê hương. Cá phải chết là bởi đời sống tinh thần của con người đã chết,
trách nhiệm đã chết, đạo đức của con người đã bị hủy diệt.
Khủng hoảng tinh thần
và đạo đức vẫn sẽ còn tiếp tục, cho đến một ngày người dân Việt Nam tự nhủ: đủ
rồi, dối trá thế đủ rồi, tự hủy diệt mình như thế đủ rồi, chúng ta cần một
cuộc sống đúng nghĩa, sống trong sự trung thực, lương thiện và với phẩm giá xứng
đáng.
Hoặc là cho đến
một ngày những người lãnh đạo hiểu ra những nguy hiểm, những sự hủy diệt mà họ
đang gây ra cho dân tộc, cho chính họ, và cho con cháu của họ, để đi tới quyết
định áp dụng một nền chính trị cho phép phục hồi các giá trị đạo đức và tinh
thần, đảm bảo một đời sống trong sạch và lành mạnh cho toàn xã hội, cho phép
xây dựng và phát triển quốc gia một cách vững mạnh; nghĩa là đi tới một quyết
định sáng suốt như quyết định mà ông Thein Sein đã thực hiện ở Miến Điện.
Tiến sĩ Nguyễn
Thị Từ Huy
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.