
Những phần trong ngoặc
kép là lời của nhân vật. Tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp
tình cờ và không chính xác.
Trong dự án này, có
nhiều cuộc nói chuyện mà 90% thời gian được dùng để kể lại nỗi đau, đến mức sau
đó chính tác giả cũng phải tìm trợ giúp tâm lý. Từ khóa quay lại nhiều nhất là
"bị hiếp" và "bị giết."
Sự tàn phá ấy quá lớn
khiến ai cũng bị dày vò để tìm lý do biện minh cho hận thù. Quá khứ mất mát trở
thành một phần cơ bản của cuộc đời. Thậm chí nếu được chữa lành thì hy sinh bỗng
trở thành "vô nghĩa."
Ta đã mất mát quá
nhiều, hận thù là chính đáng
Nhà văn Đỗ Kh. từng miêu tả cuộc sống của những cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại như những "ốc đảo của quá khứ. Cách hai thế kỷ và 10.000 cây số, người Việt vẫn tin rằng số phận long đong trốn chạy của Kiều chính là số phận của họ."
Thoạt tiên, họ
"bỏ chạy vào Nam sau cải cách ruộng đất."
"Lần thứ hai là
khi họ sợ sẽ bị "tắm máu sau ngày thống nhất."
Không có "tắm
máu," nhưng "người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo."
"Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc.
Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân
kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn."
"Cuộc sống bế tắc."
"Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không
được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm
ăn."
"Tôi sẽ không
bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột,
bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học,
dù điểm thi rất cao: 'Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ
hội?' Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là 'con ngụy', rồi
dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi
vào một cái tủ tối và bỏ đi."
Thế nên "gia đình tôi liều mình trốn chạy." Khi ấy "vượt biên là tội phản quốc. Nếu bị bắt có tiền cũng 2-3 năm, không tiền 10 năm tù." "Vụ tàu Việt Nam Thương tín là kinh khủng nhất. Những người trên đó tự nguyện hồi hương vì tin là chính phủ khoan hồng. Nhưng về tới Nha Trang là bị dồn lên xe bít bùng. Ai cũng vào tù. Nhỏ nhất là một đứa bé 7 tuổi. Tù ít nhất 9 tháng. Trung tá Trần Đình Trụ ở tù tới 13 năm."
Nhưng người ta vẫn
trốn. "Ở Vũng Tàu sáng nào cũng thấy xác người vượt biên trôi." Ngày ấy
dân miền Nam bảo nhau: "Một là con nuôi mẹ. Hai là mẹ nuôi con. Ba là con
nuôi cá."
Bởi trên những chuyến
tàu ấy là địa ngục trần gian. "Có người phải ăn chay cả đời, phải đi tu,
phải vào trại tâm thần vì đã chứng kiến, hoặc phải tự mình ăn xác chết để cầm
hơi."
"Có cô bị xâm hại
nhiều đến mức vết thương hôi thối lựng một góc lán. Lại còn dính thai đôi. Mà
thai lại bị dị tật. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc cầm mã tấu bắt chồng và bốn
đứa con đứng xem. Người chồng là một nông dân chất phác. Anh nói mấy cái bào
thai không có tội. Thôi để chúng ở lại với vợ chồng tôi."
Ở trại tị nạn
Songkhla, "ai cũng nhớ ngày xác của 11 cô gái trẻ bị trói cổ vào nhau,
không mảnh vải che thân, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Đến giờ ở đó vẫn còn
cái am, thờ một cái thuyền đã mục. Một bà già mộ đạo đã hương khói cho nó suốt
17 năm."
Trên khắp các trại tị
nạn, "hàng trăm nấm mồ tập thể đã được dân địa phương chôn cất."
"Riêng đảo Koh Kra có 3.000 xác người nằm lại."
Rồi "mỗi trại lại
là một thế giới đau thương thu nhỏ." "Thoát chết rồi nhưng khắp trại
là những người rách rưới lang thang, miệng lẩm bẩm, thỉnh thoảng cười rú lên
hay khóc lóc thảm thiết." "Có những cô gái mỗi lần nhìn thấy biển là
lăn đùng ra, mắt trợn ngược". Có những đôi vợ chồng "không thể nhìn mặt
nhau khi chăn gối," "phải tắt đèn." Nhiều cặp "chia tay
nhau," "rồi người vợ treo cổ vào hôm kỷ niệm ngày cưới vì không thể
vượt qua được ký ức bị hãm hiếp."
"Biển trở thành
một tấm lưới, bủa vây cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai."
"Hôm ấy tôi tới
đám tang một thuyền nhân. Mọi người đau buồn khóc lóc. Rồi bỗng có một ông đứng
lên. Nói hùng hồn quá trời. Ông chửi chính quyền, chửi cộng sản. Ông nói văng cả
nước miếng. Người già gật gù nhưng đám trẻ thì có đứa bỏ về. Lúc đó tôi sốc,
nhưng giờ nghĩ lại thấy thương đứt ruột."
Càng đau càng không
muốn tha thứ. Hận thù phải tiếp tục để "nỗi đau không bị vô nghĩa," để
ta không "phản bội lại chính mình." "Mình đã mất mát quá nhiều,
mình phải hận thù." "Ngày 'quốc hận' là ngày mà nỗi đau trở thành
danh tính."
"Nhưng cứ hận
thù thế này thì sống tiếp sao đây?"
Hòa giải với nỗi đau
trở thành một mâu thuẫn tâm lý khiến "người ta kiệt sức."
Ta đã mất mát quá
nhiều. Cái giá phải trả hẳn là chính đáng
Vậy nên với nhiều
người, nhắc lại nỗi đau là để khẳng định tính chính danh của những gì mình từng
làm, khẳng định rằng quá khứ của mình vẫn còn giá trị. "Hòa giải đồng
nghĩa với việc chấp nhận mình sai, mất mát đó không còn cao cả nữa mà bỗng
thành ra vô ích."
Tuy nhiên, điều cao
cả ấy ở mức độ cộng đồng, còn sự hy sinh thì lại ở tầng cá thể. Để
dung hòa được khoảng cách đó không dễ dàng.
"Ở hải ngoại,
người ta gắn kết bởi nỗi đau trong quá khứ. Ở trong nước, người ta gắn kết
bởi vinh quang trong dĩ vãng."
Nhưng "người
chiến thắng cũng đau chứ, chỉ có điều đó là nỗi đau của những anh hùng."
"Nó phải được gói ghém trong màu vinh quang," bởi chiến tranh không
phải là những câu chuyện buồn. Nó là "sử thi và tráng ca."
Có rất ít không gian
cho những chấn thương hậu chiến, nơi kẻ chiến thắng được "quyền đau đớn,"
được quyền "hoang mang," được quyền "tự chất vấn," được quyền
"nhận ra mình sai đúng ở đâu," và quan trọng nhất là được quyền
"trợ giúp để chữa lành."
"Mẹ hay kể chuyện
đang ăn cơm thì bị đánh bom. Cô bạn của mẹ mới vừa cầm bát ngồi đây. Bom nổ
đùng một cái. Thân đã ở trên cây. Đầu vướng cành trên cao. Chân vương cành dưới
thấp. Mẹ thường chửi bới cậu (em trai mẹ) một cách tàn nhẫn. Rằng mày không đi
chiến đấu. Cả nhà này chỉ mình tao hy sinh. Chúng mày ở hậu phương ăn sung mặc
sướng… Cái sai nhất của cậu là mày dám sướng. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ cười
thành tiếng. Cả đời cho đến khi chết, nỗi đau của mẹ không có câu trả lời thỏa
đáng."
"Gia đình tôi
chia đôi theo cuộc chiến quốc-cộng. Sau 75, bác vượt biên đi nước ngoài. Bố ở lại.
Khi bác về thăm, bố bảo: 'Việt Kiều nhưng cũng mất nước'. Bố lúc nào cũng uẩn ức,
giận dỗi, mâu thuẫn rất khó hiểu. Rồi tôi nhận ra là bố luôn muốn đi. Hóa ra bố
ghen tị. Bố không có sự tự hào của người ở lại. Bố bị mắc kẹt trong việc cố gắng
lý giải nỗi đau của mình."
"Cô (chỉ tác giả)
nói ba cô lúc sắp chết mới sám hối khi nhìn thấy ma quỷ đúng không? Ba tôi lúc
còn sống đã sám hối rồi. Đó là khi ông biết về tù cải tạo, về đánh tư sản, về
thuyền nhân. Tuyền là những thứ mà ông cho rằng mình phần nào có lỗi."
"Bố tôi 5 lần
là dũng sĩ diệt Mỹ. Khi bố mất, tôi tìm thấy những huy chương ấy gói kín, để
sâu trong tủ. Bố chỉ ghét Mỹ thôi. Bố không bao giờ nhắc tới những huy chương
này, vì bố phải giết cả đồng bào mình. Nên ông giấu đi. Các cựu chiến binh đi hội
nghị đeo đầy ngực, nhưng bố không bao giờ. Bố bảo người ta cũng yêu nước giống
mình, chỉ có điều lý tưởng của người ta giống Mỹ."
"Bố tôi rất
ghét bọn trẻ trâu khi chúng nó tự hào ầm ĩ trên mạng. Kể lại chuyện thắng Mỹ thắng
Pháp, Đại Việt thần thánh nọ kia với sự kiêu hãnh như thể chính chúng nó lập
công. Trong khi chúng không hề biết mùi máu là gì.
Tự hào về chiến
tranh bây giờ toàn bọn trẻ con quen chơi game bắn nhau. Người thực sự cầm súng
họ không kiêu hãnh kiểu như thế. Bố bảo lũ oắt con có giỏi thì tự mình thành
công đi. Rồi tha hồ mà tự hào. Đừng có yêu nước bằng máu của bọn tao.
Bọn trẻ ranh ấy
không hiểu rằng, những ai đã giết người, dù chính nghĩa đến đâu, thì rất khó nhắc
lại mà trong lòng không tý gợn. Viết ra được những câu kiểu như 'Dưới kia chúng
nó đang cười. Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết!' thì chỉ có mấy ông nhà thơ.
Ra chiến trường đi, không bao giờ còn viết được thế."
"Những người thực
sự đi qua chiến tranh mà chưa hóa đá với nỗi đau, họ viết như Bảo Ninh cơ. Họ
cũng sống như Bảo Ninh luôn.
Cái hôm sống sót trở
về nhà, Bảo Ninh đã đi lên cầu thang rất khẽ để không đánh động đến hàng xóm. Cả
nhà cũng ôm nhau rất khẽ. Bởi vì ngay phòng bên cạnh là một gia đình có con
trai không trở về."
Thế nên "bố
không muốn chết cùng với những tấm huy chương. Bố không muốn chết rồi vẫn thành
đồ trang sức. Cả đời bố là chiến binh, nhưng ảnh đám ma của bố không mặc áo
lính. Trên bàn thờ, bố mặc áo trắng."
Tôi không hiểu nếu gặp
nhau, mẹ Thứ sẽ nói gì với mẹ Phải?"
Mẹ Nguyễn Thị Phải
có ba người con chết trận. Trong một cuộc tấn công, anh Năm và anh Bảy ném lựu
đạn vào đồn địch nơi anh Tư cố thủ. Khói súng tan, hai em trai soi đèn đi tìm
xác anh trai.
Anh Năm và anh Bảy
được phong liệt sĩ. Anh Tư chết không danh hiệu. Mẹ Phải được phong "Mẹ Việt
Nam anh hùng."
"Bao năm qua, mẹ
đã sống như thế nào với nỗi đau ấy? Mẹ có cảm thấy mình là anh hùng
không?"
Chấn thương xuyên thế
hệ
Sau 1975, Việt Nam
không thực sự có một chương trình hòa giải. Thậm chí hận thù còn được "tạo
mới" bởi các "chính sách sai lầm." Điều này khiến người Việt thiếu
một không gian chung "để cùng nhìn lại, cùng nhận lỗi và cùng tha thứ. Những
vết thương vẫn rỉ máu trong im lặng. Nó truyền đời từ này sang đời khác, từ cá
nhân sang cộng đồng."
"Có lần tôi thấy
một em bé 8 tuổi trên ti vi khóc vì 'con thương Bác Hồ quá'.
Tại sao một đứa nhóc
chưa từng gặp Bác, thậm chí ông bà nó cũng không đủ già để có thể gặp Bác, mà
nó vẫn có thể khóc một cách rất chân thành vì nhớ Bác?"
Có lẽ chúng ta ai
cũng như em bé ấy, "kế thừa cả một đại dương của kiêu hãnh và sợ hãi, của
yêu mến và căm thù." Chúng ta lớn lên với một gánh non sông nặng đầy quá
khứ.
Cho nên "chiến
tranh không chỉ diễn ra hai lần, trên chiến trường và trong ký ức như nhà văn
Nguyễn Thanh Việt nói. Nó sẽ còn tiếp diễn mãi." Mỗi người, mỗi gia
đình, mỗi thầy cô, mỗi nhà lãnh đạo, mỗi thế hệ lại "thêm vào những ý
nghĩa mới."
Như "một bức tường
liên tục được vẽ bồi lên những hình graffiti mới."
Dù "bức tường
quá khứ" không thể thay đổi, nhưng "tương lai chính là những hình vẽ
mới" ấy. Hòa giải là cho phép bức tường được (1) đa nguyên sự thật với những
mảng màu đối lập nhau; (2) dựa trên một nền tảng nhân văn, không sỉ nhục nhau
trên tường, không trừng phạt người vẽ; (3) không đổ lỗi cho cả một cộng đồng.
Bức tường quá khứ sẽ
tồn tại mãi. Nhưng ý nghĩa của nó có thể thay đổi để trợ giúp cho một tương lai
cộng sinh, hòa hợp.
Hình vẽ trên tường của
bạn có hiệu ứng gì? Nó khiến người ta "dừng lại để ăn năn và chiêm nghiệm"?
Hay nó khiến họ sùng kính đến mức muốn "đóng lên đó một cái bàn thờ,"
hoặc giận dữ muốn "...đái vào chân tường cho bõ ghét"?
Di truyền biểu sinh
xuyên thế hệ
Chúng ta không chỉ kế
thừa tổn thương qua ký ức mà còn qua con đường sinh học (transgenerational
epigenetics).
Sau sang chấn, các
gien (DNA) thay đổi cách hoạt động. Sự biến đổi đó có thể di truyền lại và biểu
hiện ra bệnh tật, hành vi, cảm xúc cho vài thế hệ về sau. Các nghiên cứu nổi tiếng
trong lĩnh vực này được thực hiện với thế hệ thứ 2 và thứ 3 của nạn nhân diệt
chủng và nạn đói gây ra bởi Đức Quốc xã.
Khi còn trong bụng,
bào thai nhận tín hiệu từ cơ thể mẹ để "hiểu" về thế giới bên ngoài.
Nếu đó là trải nghiệm đau buồn, tín hiệu ấy sẽ nói với bào thai rằng: "Thế
giới ngoài kia đầy cạm bẫy. Con hãy chuẩn bị tinh thần".
Bào thai tiếp nhận
thông tin, các gien lập tức thay đổi cách làm việc. Một số gien ngừng hoạt động.
Một số gien kích hoạt hết cỡ. Cơ chế sinh học chuẩn bị sẵn sàng cho một thế giới
bất ổn. Như một căn nhà mà các ô cửa được đóng mở một cách chiến lược để tồn tại
như một pháo đài. Bào thai phát triển theo hướng lấy "phản vệ" làm
phương châm sống.
Khi sinh ra, thế giới
có thể không còn tệ như trí nhớ sinh học lưu giữ. Tuy nhiên, cơ thể đã hoàn thiện,
pháo đài đã khởi động.
Bé lớn lên có thể dễ
bị rối loạn tâm lý, căng thẳng, tăng cân, béo phì, tim mạch, tiểu đường… Kể cả
khi chất lượng cuộc sống tốt lên thì cuộc đời của một người như thế vẫn
tiếp tục gửi tín hiệu sinh học tới cho bào thai thế hệ tiếp theo. Hiệu ứng này
chỉ giảm dần qua vài thế hệ chứ không mất hẳn.
Và tất nhiên, tín hiệu
sinh học sẽ tệ hơn nếu sinh ra cơ thể đã phản xạ như một pháo đài, mà cuộc
sống xung quanh vẫn đầy hận thù. Sinh học cộng hưởng với môi trường sẽ tạo
thành vô thức cộng đồng, tác động đến lối sống, tư duy và căn tính dân tộc.
Ở Việt Nam, các thế hệ sau 75 "không trực tiếp bắn giết, không bị tù cải tạo, bị đói, bị mất mát," bị "phản bội," bị "bội tín," bị "trả thù." Họ có lẽ còn không hề biết điều đó từng xảy ra với gia đình mình.
Nhưng họ vẫn có thể
kế thừa "cảm giác sợ hãi, nghi kị, lo âu, u uất, rối loạn cảm xúc, phản xạ
cực đoan." Họ có thể dễ mắc bệnh mà không ý thức được tại sao, hoặc sẽ gán
cho nó những lý do nhất thời.
Rất có thể đây là một
phần "trầm tích sinh học" của bao thương đau mà người Việt đã trải
qua, khiến cái "cơ thể còi cọc của chúng ta luôn xù lông lên với cả thế giới."
Nếu ta không thực sự
hàn gắn dân tộc, chặn lại cỗ xe di truyền ấy, hậu quả sẽ là một vòng xoáy với
nhiều thế hệ mang trong mình "khuyết tật," là "hàng núi tiền đổ
vào chữa bệnh," là sự "suy giảm năng suất sáng tạo," là sự
tụt hậu sinh học của cả dân tộc khi phải chạy đua với một "cơ thể bạo
bệnh."
Cùng gọi tên nỗi đau
Nhưng nếu "khép
lại" mà không "ghi nhận" thì chỉ là đóng băng xung đột. Nỗi đau
không được gọi tên sẽ biến thành nghi ngờ, oán giận. Nỗi đau cần được thừa nhận
trước khi có thể chuyển hóa. Đó là nguyên tắc cốt lõi. "Ta không thể chữa
lành những gì ta không thể gọi tên" (James Baldwin).
Tuy nhiên, chữa lành
nỗi đau cá nhân khác với những sang chấn cộng đồng. Rất khó có thể "dùng
trị liệu, gặp bác sĩ tâm lý, đi thiền, đi tu để tự chữa lành trong không gian
riêng tư."
"Một người lính
có thể được trị liệu tâm lý, sống hạnh phúc trong gia đình. Nhưng nếu xã hội
xung quanh vẫn phủ nhận nỗi đau của họ thì cuộc chiến ấy không bao giờ kết
thúc."
"Chấn thương cộng
đồng thì phải được chữa lành trong cộng đồng. Người ta phải cùng nhau làm điều
đó. Họ phải được chứng kiến. Họ phải không đơn độc. Chỉ như thế thì ký ức mới
được 'rã băng'."
Hòa giải không cần
công lý?
Một số nhân vật nhắc
tới chương trình "Như chưa từng có cuộc chia ly" như một ví dụ hiếm hoi
từ truyền thông chính thống.
"Cứ nghe thấy
giọng Thu Uyên là tôi khóc." "Thật kỳ diệu khi nỗi đau có thể hàn gắn
đến vậy. Bởi nó không phán xét. Người ta đau, nhưng không đổ lỗi cho
nhau."
Ở Như chưa từng có
cuộc chia ly, những người "bị chính sử gạt ra ngoài được phục hồi phẩm giá
trong tư cách người cha, người mẹ, người con chứ không còn bị rút gọn thành kẻ
địch." Ở chiều ngược lại, "những anh hùng được phép trở thành người
thường, với tất cả sự yếu đuối, tổn thương và sai lầm của họ."
"Nó dùng nỗi đau
chung để tái tạo ký ức (reconstructed memory), khiến đau thương sau
khi được ghi nhận có thể mang một ý nghĩa khác."
"Nó cũng bám
vào một kết cấu vững chắc của văn hóa Việt Nam. Đó là gia đình. Người Việt vốn
nặng gánh máu mủ, chỉ cần một tý tình nghĩa chân thành là có thể bỏ qua cho
nhau."
Tuy nhiên, Như chưa
từng có cuộc chia ly cũng nhận được nhiều góp ý.
"Tôi muốn thấy
những câu chuyện đa dạng hơn, liên quan nhiều hơn đến phía bên kia, đến tù cải
tạo, đến thuyền nhân. Ví dụ, trên mạng có rất nhiều diễn đàn nhỏ lẻ tìm người
thân thất lạc sau khi vượt biển và ở trại tị nạn."
"Cái lỡ cỡ của
Như chưa từng có cuộc chia ly là nó chuyển hóa chấn thương tập thể thành những
chuyện riêng tư, chữa lành theo logic tân tự do (neoliberalism), bắt cá
nhân phải tự chịu trách nhiệm thay vì hệ thống phải sửa sai." "Nó từ
chối đối thoại chính trị, từ chối chạm vào gốc rễ của lịch sử. Và cũng tức là từ
chối mở đường cho công lý."
(Nhân vật minh họa bằng
nghiên cứu Collective wound, private healing của Nguyen-Thu Giang).
"Người ta có thể
kết nối bởi nỗi đau và không đổ lỗi cho nhau. Nhưng cái hệ thống đã gây ra nỗi
đau thì không thể bị tảng lờ đi."
"Có điều trong
bối cảnh bây giờ, những cuộc đối thoại như thế cũng đã là tốt lắm rồi."
Vai trò của lãnh đạo
trong 'công lý ghi nhận'
"Ở Việt Nam, sự
ghi nhận ấy phải đến từ người lãnh đạo."
Thứ nhất là yếu tố
"tập quyền chính trị và tôn sùng cá nhân" khiến cho "tiếng nói của
lãnh đạo trở thành cái thẻ bài," thành "tín hiệu an toàn" để người
dân "được bảo vệ khi bước vào không gian và quỹ đạo của sự thật."
Thứ hai là tại Việt
Nam, đối tượng cần hòa giải là giữa chính quyền với nạn nhân của những
"chính sách sai lầm sau 75." Tiếng nói của lãnh đạo đặc biệt quan trọng
vì nó đại diện cho chính quyền.
"Sau cải cách
ruộng đất, tất cả nồi, niêu, xoong, chảo, lúa, gạo, quần áo đều bị cướp sạch. Đến
cái cánh cửa cũng bị tháo." "Nhà có 15 người thì 11 người chết. Hai đứa
trẻ con bị làng đuổi ra gò. Ăn trộm sắn vì đói. Nuốt sống ngộ độc. Rồi cũng chết."
"Nhưng mà họ
cũng chỉ kể lại thôi. Không có sự căm thù ngùn ngụt trong giọng nói. Không đầy
uất hận như kể về những gì diễn ra ở miền Nam sau 'giải phóng'."
"Tại sao ư? Tại
Bác Hồ xin lỗi."
"Hàng nghìn người
chết thảm trong những tòa án nông dân man rợ. Người bị bắn đầu tiên là một phụ
nữ đã nuôi giấu lãnh đạo Việt Minh như con cái trong nhà, đã hiến hàng trăm lượng
vàng cho cách mạng (địa chủ Cát Hanh Long). Thương đau ngút ngàn. Oan thấu trời
xanh. Thế mà sau khi Cụ Hồ xin lỗi, bao nhiêu người lại tiếp tục gửi con đi bộ
đội."
"Sau này có ông
Kiệt. Ông nói một câu trong dịp 30/4/2005 là sự kiện này triệu người vui, triệu
người buồn. Tổ chức rình rang ít thôi. Vậy mà người ta nhớ mãi, thương yêu ông
mãi. Giá có thêm nhiều ông Kiệt."
"Giờ có ông Tô
Lâm cũng mạnh. Ông chỉ nói một câu Sài Gòn từng là 'hòn ngọc viễn đông' là người
miền Nam trút được nhiêu bao uất ức." "Phải ghi nhận miền Nam thực
lòng như thế thì dân Nam mới khôi phục lại lòng tin."
"Cái sức mạnh của
người lãnh đạo trong một cơ chế tập quyền nó khủng khiếp lắm. Chưa cần đến
chính sách. Chỉ cần một câu của lãnh đạo là đủ tạo bước ngoặt, tiết kiệm hàng
thập kỷ nỗ lực của dân đen." "Như một đàn số 0, lãnh đạo tốt là con số
1 đứng trước dãy số 0 đó."
"Lãnh đạo dở
thì chắc là… dấu phẩy."
Mỗi nỗi đau là một
nhịp cầu
"Hồi cấp 2, tôi
từng bị bắt nạt. Cô giáo bảo nếu nhận lỗi thì cô sẽ tha. Nhưng cô không giữ lời.
Tôi cứ thế lớn trong sự bạo hành của bạn học và người lớn.
Khi vào Nam sinh sống
và nghe câu chuyện của người nơi đây, tôi thấy họ cũng có những tổn thương y
như mình. Tôi và những cựu binh đều là nạn nhân của bạo lực tinh thần. Nếu như
không có những tổn thương trong quá khứ, chưa chắc tôi đã nhìn ra nỗi đau của họ.
Chưa chắc tôi đã có thể nối những đau thương của mình với trải nghiệm của
cả dân tộc."
"Hồi năm nhất
tôi đi học ở Mỹ. Trong trường có treo cờ vàng. Tôi viết thư đòi hạ cờ.
Khi ấy, tôi có ý tốt.
Tôi muốn họ thôi hận thù. Tôi muốn họ phải đồng ý với tôi. Rằng, thôi đi, đau
nó vừa thôi. 18 tuổi tôi chỉ nghĩ được đến thế.
Sau này, mắt tôi cứ
kém dần đi. Mơ ước làm tiến sĩ của tôi tan tành. Tôi sống nhiều năm với nỗi đau
của một người tật nguyền và trầm cảm.
Lúc đấy bỗng nhiên
tôi tìm thấy kinh Địa Tạng. Đọc xong tôi cứ khóc mãi. Tôi bắt đầu hiểu rằng ai
cũng có nỗi đau riêng. Mình không phải họ, sao bắt họ hết đau?
Thế nên tôi bắt đầu
biết thương. Không yêu, mà thương. Yêu hơi ích kỷ. Nhưng trong cái thương
thì có cái đau. Khi mình thương, mình chấp nhận nỗi đau là một phần để vỗ
về, an ủi."
Mỗi người giữ một
chút tử tế
Dù chính quyền được
xác định là chịu trách nhiệm chủ yếu trong tiến trình hòa giải, nhiều nhân vật
vẫn cho rằng "hàn gắn dân tộc cũng là nghĩa vụ của một người tử tế."
"Trước khi chết,
ba của cô (tác giả) đã sám hối, vì ông nhận ra mình giết nhiều người quá.
Nhưng làm sao để khoảnh
khắc ấy xảy ra sớm hơn mà không cần phải viện đến sức mạnh của cái chết?"
"Tôi chọn trở
thành người tốt khi có thể. Tôi chấp nhận là một kẻ xám xịt, trắng không ra trắng,
đen không ra đen. Nhưng tôi ý thức được rằng mình không muốn bị đen tuyền, bị
tha hóa. Khi nào tốt mà không hại đến bản thân thì phải tốt."
"Tôi dặn mình
phải giữ chút liêm sỉ nghề nghiệp. Tôi không bao giờ dùng từ 'ngụy', 'giải
phóng', 'lưu vong', 'phản động'. Nếu lỡ mồm thì xin lỗi ngay. Hàng chục năm làm
biên tập, không bài báo nào qua tay tôi mà có dính những từ đó."
"Bố tôi tự hòa
giải bằng sử ký và văn học chấn thương. Bố đọc Chuyện ba người, Nỗi buồn
chiến tranh, Bên thắng cuộc, Gia đình, Tôi là con gái của cha tôi, Hai bên chiến
tuyến, Tổ quốc ăn năn, Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Giải khăn sô cho Huế, Mùa hè
đỏ lửa… Bố chia sẻ cho bạn bè. Bố kể cho tôi nghe."
"Tôi xem ti vi
cùng con." "Thỉnh thoảng tôi kể cho con một câu chuyện ngược lại để
thách thức đầu óc phản biện của con."
"Hồi trẻ tôi
nghĩ mình phải đi khỏi Việt Nam để không bị chết chìm trong sự ngu si của thiên
hạ. Nhưng giờ tôi kệ. Nếu chết ngộp thì chết ở đây. Kỳ lạ thế. Máu hỏng thịt hỏng,
nhưng là máu thịt mình. Mình có phần mình, nên xã hội này mới thế.
Hiểu được vậy thì sẽ
không thù hận nữa. Hiểu được vậy thì sẽ thương cả những kẻ ngu si. Hiểu được vậy
thì mới thấy trách nhiệm của mình.
Hiểu được vậy thì sẽ
không còn hỏi 'Chuông nguyện hồn ai?'
Bởi chuông nguyện
chính hồn nhà ngươi đấy. Biết không?"
TS_Nguyễn Phương Mai
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.