
Tại các thành thị,
người Công giáo nhiệt tình tham gia các cuộc biểu tình đòi độc lập, phủ kín các
ngả đường. Các làng Công giáo ở nông thôn tự tổ chức những buổi lễ mừng riêng.
Các chủng sinh trẻ tuổi bất chấp lệnh của các vị thừa sai yêu cầu không tham
gia chính trị; một số cộng đồng thậm chí còn ngăn cản các thừa sai vào nhà thờ
hoặc trục xuất họ hoàn toàn. Báo chí Công giáo và các hội đoàn giáo dân đã tích
cực truyền tải tin tức chính trị và vận động người dân ủng hộ nền độc lập. Hình
tượng tử đạo Công giáo – suốt nhiều thế kỷ là biểu tượng của sự ly khai và bách
hại đối với người Công giáo Việt Nam – lúc bấy giờ, vào năm 1945, đã trở thành
hiện thân của những hy sinh mà người Công giáo sẵn sàng dấn thân vì tổ quốc
Việt Nam.
Tinh thần yêu nước ấy
bắt nguồn từ những chuyển biến sâu sắc về văn hóa và chính trị trong đời sống
Công giáo Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Sau Thế chiến I, Tòa Thánh Vatican chủ
trương xây dựng các giáo hội quốc gia bền vững và tự chủ tại châu Á và châu
Phi, thoát khỏi sự giám sát của các hội thừa sai. Năm 1925, Tòa Thánh Roma bổ
nhiệm vị đại diện Giáo hoàng đầu tiên trực tiếp đến Việt Nam, và đến năm 1933,
đã truyền chức giám mục cho người Việt Nam đầu tiên: Đức cha Nguyễn Bá Tòng.
Sự phát triển của cơ
sở hạ tầng và phương tiện giao thông đã tạo điều kiện cho người Công giáo từ khắp
nơi trong nước tham gia các Đại hội Thánh thể và hành hương Đức Mẹ. Trình độ
dân trí ngày càng nâng cao giúp người Công giáo Việt Nam đọc được ngày càng nhiều
ấn phẩm quốc ngữ, qua đó họ cảm nhận rõ hơn mối liên kết giữa các cộng đồng
Công giáo trong nước cũng như với thế giới Công giáo toàn cầu. Những chuyển biến
như vậy đã hình thành một ý thức tôn giáo dân tộc mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy
làn sóng chủ nghĩa dân tộc chính trị bùng nổ trong đời sống Công giáo Việt Nam
vào năm 1945 và những năm sau đó.
Chủ nghĩa dân tộc Công
giáo hiện đại ở Việt Nam phản ánh hai định hướng tư tưởng chính, cả hai đều xuất
hiện từ thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến. Thứ nhất là Công giáo Xã hội, vốn bắt
nguồn từ nhiều thập niên phê phán chủ nghĩa tư bản công nghiệp trong giới Công
giáo châu Âu. Quan điểm này cho rằng đạo đức và lòng bác ái không còn đủ để giải
quyết tình trạng bất bình đẳng và khốn khó về kinh tế, và rằng nhà nước cần can
thiệp tích cực hơn để bảo đảm phúc lợi và phẩm giá cho mọi người. Tại Việt Nam,
Công giáo Xã hội phát triển như một phản ứng trước những bất cập và lạm dụng của
chế độ thực dân, đặc biệt là trong giai đoạn Đại Khủng hoảng những năm 1930.
Tư tưởng thứ hai là
chủ nghĩa chống cộng, được hình thành từ lập trường phản đối của Tòa Thánh
Vatican đối với một hệ tư tưởng chính trị toàn cầu mà Giáo hội xem là vô thần
và trái luân lý. Chủ nghĩa chống cộng bắt đầu lan rộng trong cộng đồng Công
giáo Việt Nam sau các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm
1930–1931 (khi một số cộng đồng Công giáo trở thành mục tiêu tấn công), cũng
như trong làn sóng hoạt động hợp pháp của phong trào cộng sản tại Đông Dương
vào các năm 1936–1937.
Lê Hữu Từ, vị giám
mục đầy quyền uy của Giáo phận Phát Diệm với ảnh hưởng lớn trong giới Công
giáo, vẫn duy trì đối thoại với các lãnh đạo cộng sản nhưng cũng bắt đầu thúc
đẩy việc mở rộng quyền tự chủ trước sự kiểm soát của nhà nước cộng sản.
Cho đến năm 1950, Phát Diệm cùng với giáo phận lân cận là Bùi Chu – vùng đất được
xem là trung tâm lịch sử của Công giáo Việt Nam – vẫn phần lớn nằm ngoài quyền
kiểm soát của cả chính quyền Pháp lẫn cộng sản. Hai giáo phận này đã tổ chức được
các lực lượng vũ trang riêng, một hệ thống thông tin – tuyên truyền, cùng với
các tờ báo và đài phát thanh của chính mình. Tại miền Nam, nơi cộng đồng Công
giáo phân bố rải rác hơn và lực lượng cộng sản chưa thiết lập được thế độc quyền
chính trị như ở miền Bắc, nhiều người Công giáo vẫn tiếp tục tham gia vào phong
trào kháng chiến chống Pháp với thành phần tư tưởng đa dạng và linh hoạt hơn.
Vị thế của người
Công giáo Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập đã thay đổi nhanh chóng từ
năm 1950 trở đi. Chiến thắng của phe cộng sản tại Trung Quốc vào năm 1949 không
chỉ cung cấp hậu thuẫn vật chất cho phong trào cộng sản Việt Nam mà còn tiếp
thêm nhiệt huyết về mặt ý thức hệ. Mối đe dọa cộng sản ngày càng lan rộng tại
châu Á đã thúc đẩy Pháp và các lực lượng chính trị chống cộng người Việt hợp
tác thành lập Quốc gia Việt Nam, như một giải pháp dân tộc chủ nghĩa nhằm đối
trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tòa Thánh Roma đã công nhận Quốc gia Việt
Nam vào đầu năm 1950.
Chiến tranh leo
thang sau năm 1950 đã dần làm xói mòn quyền tự chủ của hai giáo phận Phát Diệm
và Bùi Chu, vốn rơi vào quyền kiểm soát của Quốc gia Việt Nam sau năm 1951. Khi
hàng giáo phẩm chọn đứng hẳn về phía phi cộng sản, người Công giáo sống trong
các vùng do chính quyền Việt Minh kiểm soát bắt đầu phải đối mặt với sự nghi kỵ
ngày càng tăng và những hạn chế chặt chẽ hơn trong đời sống hằng ngày. Một số
ít linh mục và trí thức Công giáo vẫn tiếp tục công khai ủng hộ Việt Minh sau
năm 1951, phần lớn là do niềm tin chân thành, nhưng từ thời điểm đó trở đi, họ
đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Công giáo.
Chiến thắng của lực
lượng cộng sản tại Điện Biên Phủ vào tháng 5 năm 1954 đã đặt ra cho phần lớn
người Công giáo miền Bắc – cũng như nhiều người dân khác trong khu vực – một lựa
chọn vô cùng khó khăn: nên ở lại quê hương dưới sự quản lý của chính quyền cộng
sản, hay rời bỏ tất cả để đi vào một tương lai bất định ở miền Nam phi cộng sản?
Một đa số rõ rệt
trong cộng đồng Công giáo miền Bắc – từ hai phần ba đến ba phần tư – đã chọn rời
đi, nhưng đó không phải là một quyết định dễ dàng hay hiển nhiên. Những người
lựa chọn ra đi đã làm vậy vì nhiều lý do: lo ngại về những giới hạn đối với
tự do tôn giáo, quan ngại về điều kiện kinh tế khó khăn tại miền Bắc, sự ủng
lập trường chống cộng không nhất thiết gắn với đức tin, ảnh hưởng từ giới giáo
sĩ, cũng như tác động từ các chiến dịch tuyên truyền do Hoa Kỳ dẫn đầu (mặc dù
chiến dịch tuyên truyền này có phần nổi bật, nhưng cuối cùng lại không
mang tính quyết định). Sau giai đoạn tạm trú ban đầu tại các trại tỵ nạn,
chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành tái định cư người Công giáo miền Bắc
trên khắp miền Nam, theo một phương án mà họ kỳ vọng sẽ góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế và bảo đảm an ninh chính trị.
Tuy nhiên, đã có
hàng trăm ngàn người Công giáo lựa chọn không rời miền Bắc vào năm 1954. Họ
cũng có nhiều lý do khác nhau. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ngăn cản
một số người di cư, nhưng cũng có nhiều người chủ động ở lại vì niềm hy vọng dè
dặt vào một bối cảnh chính trị hậu chiến ổn định hơn, vì mối ràng buộc với gia
đình và cộng đồng, vì mong muốn giữ gìn đất đai và tài sản tổ tiên, hoặc đơn giản
chỉ vì lo sợ trước một tương lai bất định ở miền Nam.
Trong thời chiến,
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đối xử với người Công giáo bằng sự
nghi kỵ và thù địch. Họ cấm các trường học của giáo xứ, hạn chế nghiêm ngặt hoạt
động của các hội đoàn Công giáo và theo dõi chặt chẽ các linh mục cùng giới tu
sĩ. Chỉ sau một thời gian ngắn, phần lớn người Công giáo đã cảm thấy bất mãn
sâu sắc với chế độ cộng sản. Cuộc nổi dậy lớn nhất chống lại chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 diễn ra tại Quỳnh Lưu – một huyện có
đông đảo giáo dân. Mặc dù chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hạn chế mạnh mẽ
vai trò của Tòa Thánh Vatican trong đời sống giáo hội, nhưng khác với Trung cộng,
họ không bao giờ thành lập một hệ thống giáo hội độc lập để đối trọng với Roma.
Nhiều người Công giáo
ở miền Nam tin rằng họ đã tìm thấy vị cứu tinh nơi Ngô Đình Diệm – người trở
thành nguyên thủ Công giáo đầu tiên trong lịch sử Việt Nam khi tiếp quản chính
quyền từ cựu hoàng Bảo Đại và tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa vào năm
1955. Ý thức hệ chủ đạo của Ngô Đình Diệm là chủ nghĩa nhân vị – một dòng tư
tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong Công giáo châu Âu từ những năm 1930 – đã dung
hòa các yếu tố của Công giáo Xã hội và chủ nghĩa chống cộng trong chính trị
Công giáo Việt Nam hiện đại. Thông qua các tổ chức xã hội, cải cách điền địa,
chương trình tái định cư, xây dựng ấp chiến lược và các sáng kiến nhà nước
khác, Ngô Đình Diệm hình dung một nhà nước can thiệp mạnh mẽ được dẫn dắt
bởi các nguyên tắc đạo đức và gắn kết tập thể là một phương thuốc đối
kháng với chủ nghĩa tư bản cá nhân và chủ nghĩa cộng sản vô thần.
Ngô Đình Diệm dựa
nhiều vào các mạng lưới đồng minh chính trị trong giới Công giáo để bổ nhiệm
nhân sự vào các vị trí quan trọng trong chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Điều này mang lại cho một số cá nhân, cộng đồng và tổ chức Công giáo cơ hội tiếp
cận đặc quyền đối với quyền lực và tài nguyên nhà nước. Ảnh hưởng của Công giáo
đặc biệt rõ nét tại Huế và vùng phụ cận, nơi một người anh của Diệm – Ngô Đình
Thục – làm tổng giám mục, và một người em – Ngô Đình Cẩn – dùng lực lượng dân vệ
và mật vụ để cai trị bằng bàn tay sắt.
Sự đa dạng trong văn
hóa và chính trị Công giáo tại miền Nam Việt Nam đã thể hiện rõ ngay sau khi đất
nước bị chia cắt. Phần lớn người Công giáo miền Bắc di cư vào Nam cùng với toàn
bộ giáo xứ của họ, thường được tổ chức thành những làng có đa số hoặc hoàn toàn
là giáo dân. Cả chính quyền Việt Nam Cộng hòa lẫn giới giáo quyền (đặc biệt là
giám mục Phạm Ngọc Chỉ, một nhân vật có ảnh hưởng lớn, người đã dẫn đầu cuộc di
cư từ Bùi Chu và sau đó đảm nhiệm Giáo phận Quy Nhơn) đều nỗ lực duy trì các cộng
đồng này tại miền Nam. Tuy nhiên, điều đó đã gây khó khăn cho quá trình hội nhập
về tinh thần và xã hội với người Công giáo bản địa, vốn có đời sống trần thế
không bị chi phối mạnh mẽ bởi cấu trúc làng đạo và ảnh hưởng của giới giáo sĩ
như ở miền Bắc.
Ngay cả Tòa Thánh
Vatican – dù luôn công khai ủng hộ Diệm – cũng đã đặt dấu hỏi về cách ông xử lý
phong trào Phật giáo ngày càng có tổ chức và bất bình, đồng thời đã chủ
động giới hạn sự can thiệp của chính quyền đối với Giáo hội Công giáo Việt
Nam, mà biểu hiện rõ nhất là việc từ chối áp lực từ phía chính quyền trong việc
bổ nhiệm ông Ngô Đình Thục làm tổng giám mục Sài Gòn. Sự thiếu khoan dung của
chế độ Ngô Đình Diệm đối với một số khía cạnh trong đời sống tôn giáo có tổ chức
của Phật giáo – đặc biệt là việc đàn áp các hoạt động đối lập chính trị của Phật
giáo – đã đóng vai trò quan trọng trong sự sụp đổ của chế độ này qua cuộc đảo
chính quân sự do Hoa Kỳ hậu thuẫn vào tháng 11 năm 1963.
Tuy nhiên, người
Công giáo vẫn giữ vai trò có ảnh hưởng trong đời sống xã hội và chính trị miền
Nam trong suốt mười hai năm tiếp theo – giai đoạn đầy bất ổn chính trị và chiến
tranh tàn khốc mà Việt Nam Cộng hòa phải đối mặt cho đến khi sụp đổ vào năm
1975. Hệ thống tổ chức và mạng lưới thể chế vững mạnh của Giáo hội, với sự hỗ
trợ từ Tòa Thánh Vatican, đã trở thành nguồn lực thiết yếu trong các hoạt
động hỗ trợ xã hội và nhân đạo, vào thời điểm mà chính quyền Việt Nam Cộng hòa
gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu to lớn của xã hội.
Giai đoạn quân quản
và sự khôi phục chính quyền dân sự vào năm 1967 cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
hơn nữa hoạt động tổ chức và vận động chính trị trong giới Công giáo. Một nhóm
nhỏ nhưng có tiếng nói và ảnh hưởng trong đời sống Công giáo đã thể hiện lập
trường phê phán nhất quán từ góc độ cánh tả đối với xu hướng chuyên chế của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cũng như đối với vai trò mà họ cho là một phần
trách nhiệm của chính quyền này trong cuộc chiến tranh đang tàn phá đất nước.
Những gương mặt nổi
bật nhất trong nhóm này từng du học ở nước ngoài vào thập niên 1940 và 1950, và
chịu ảnh hưởng sâu đậm từ các trào lưu chính trị Công giáo thiên tả ở châu Âu
thời hậu chiến. Trong số đó có những nhân vật như Chân Tín, Nguyễn Đình Đầu,
Trương Bá Cần, cùng nhiều người khác gắn bó với các tạp chí tiến bộ như Sống Đạo,
Hành Trình và Đối Diện. Các ấn phẩm này kêu gọi một giải pháp trung lập cho chiến
tranh, thúc đẩy đối thoại liên tôn giáo nhằm giảm căng thẳng với Phật giáo, và
cổ vũ các chính sách can thiệp kinh tế sâu rộng của nhà nước như một phương tiện
để đổi mới xã hội. Không có gì ngạc nhiên khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa thường
xuyên kiểm duyệt các ấn phẩm của họ và sách nhiễu những nhân vật chủ chốt, ngay
cả trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Công giáo Nguyễn Văn Thiệu.
Người Công giáo cũng
thách thức giới lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa từ phía cánh hữu. Dưới sự dẫn dắt của
các nhân vật như linh mục Hoàng Quỳnh, Trần Hữu Thanh và nhiều giáo sĩ cũng như
giáo dân có ảnh hưởng khác trong làn sóng di cư từ miền Bắc, khuynh hướng
chính trị này của Công giáo Việt Nam phản đối các nỗ lực sau cuộc đảo chính lật
đổ Ngô Đình Diệm nhằm giảm ảnh hưởng của Công giáo trong chính quyền và tìm kiếm
các giải pháp trung lập để kết thúc chiến tranh.
Năm 1966, họ đã huy
động lực lượng phản đối làn sóng hoạt động mới của giới Phật giáo chống lại
chính quyền Nguyễn Cao Kỳ. Chủ nghĩa chống cộng đầy nhiệt thành của phe này là
cơ sở cho những phê phán liên tục đối với nỗ lực chiến tranh của Việt Nam Cộng
hòa, mà họ xem là thiếu hiệu quả và nửa vời.
Tuy nhiên, lập trường
chống cộng chưa bao giờ đủ để che lấp những chia rẽ khác xuất hiện trong chính
trường Công giáo Việt Nam dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa – những chia rẽ này thường
xuyên bộc lộ tại Quốc hội. Các vấn đề như vai trò và cách hành xử của đồng minh
Hoa Kỳ, việc chính quyền kìm hãm tranh luận chính trị và tiếng nói bất đồng
nhân danh chiến tranh, tình trạng tham nhũng tràn lan trong bộ máy hành chính
và quân đội, cũng như mối quan hệ giữa cộng đồng Công giáo thiểu số với các lực
lượng chính trị khác (đặc biệt là Phật giáo), đều là những yếu tố khiến phe
cánh hữu Công giáo tại miền Nam không ngừng rơi vào tình trạng chia rẽ nội bộ.
Tuy vậy, nhìn chung,
vị thế của Giáo hội trong Việt Nam thời hậu chiến là và vẫn tiếp tục là một thực
tại đầy khó khăn: các giới hạn nghiêm ngặt đối với giáo dục, hội đoàn và tự do
ngôn luận; các xung đột thường xuyên với Tòa Thánh Vatican về việc bổ nhiệm
hàng giáo phẩm; việc nhà nước trưng thu đất đai của Giáo hội; và sự đàn áp nặng
nề đối với những người Công giáo hoạt động chính trị.
Cũng như vào năm
1954, nhiều người Công giáo Việt Nam một lần nữa đã "bỏ phiếu bằng đôi
chân" sau năm 1975. Hàng trăm ngàn người đã rời khỏi đất nước – một lần nữa,
với tỉ lệ cao hơn nhiều so với tỷ trọng dân số của họ. Phần lớn trong số này cuối
cùng đã định cư tại Hoa Kỳ, trở thành thế hệ đầu tiên của một cộng đồng tôn
giáo mà hiện nay chiếm khoảng một phần ba dân số người Mỹ gốc Việt.
Câu chuyện của Công giáo Việt Nam phản ánh nhiều khía cạnh đã khiến lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX trở nên chia rẽ và đau thương. Khi chế độ thực dân Pháp chấm dứt, người Công giáo Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc xây dựng một quốc gia Việt Nam độc lập. Nhưng đồng thời, họ cũng mang một bản sắc sắc tộc-tôn giáo riêng biệt, gắn liền với quá khứ từng bị gạt ra bên lề và bị bách hại.
Bản sắc tôn giáo chưa bao giờ hoàn toàn quyết định các lựa chọn mà người Công giáo Việt Nam đưa ra trong đời sống xã hội và chính trị. Tuy nhiên, nó đã định hình nơi nhiều người một mối quan hệ đầy căng thẳng và đối kháng với chủ nghĩa cộng sản – một mô hình xã hội mà nhiều tín hữu Công giáo cho là vô luân và không thể chấp nhận. Do đó, người Công giáo là một trong nhiều bộ phận trong xã hội Việt Nam đã ủng hộ một quốc gia phi cộng sản không phải một cách thụ động hay hời hợt, mà xuất phát từ những giá trị sâu xa và cốt lõi nhất của họ.Tuy nhiên, người
Công giáo Việt Nam chưa bao giờ là một khối thống nhất trong đời sống chính trị
vốn đa dạng và đầy chia rẽ của đất nước. Ở miền Nam, họ thường bất đồng với
nhau về con đường xây dựng một quốc gia phi cộng sản. Còn ở miền Bắc, và trên cả
nước sau năm 1975, một số người Công giáo khác lại tìm thấy những lý do thực dụng
– thậm chí mang tính lý tưởng – để chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và góp
phần vào tầm nhìn của nhà nước trong việc xây dựng quốc gia.
Sự đa dạng và phân
hóa trong đời sống chính trị của Công giáo Việt Nam – một trong những cộng đồng
có bản sắc văn hóa riêng biệt và nhất quán nhất trong xã hội Việt Nam – cho thấy
mức độ chia rẽ sâu sắc và không thể giản lược của cuộc nội chiến Việt Nam.
Charles Keith
***
* Charles Keith
là nhà sử học chuyên về Việt Nam hiện đại, với trọng tâm nghiên cứu về xã hội,
văn hóa và chính trị trong thời kỳ thuộc địa và phi thực dân hóa. Ông nhận bằng
tiến sĩ từ Đại học Yale và hiện là Giáo sư giảng dạy tại Đại học Michigan
State University, nơi ông là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu châu Á và
Chương trình Nghiên cứu người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương. Tác phẩm Catholic
Vietnam (Công giáo Việt Nam, [2012]) của ông đã giành được nhiều giải
thưởng học thuật uy tín và được dịch sang tiếng Việt. Cuốn sách mới nhất của
ông, Subjects and Sojourners (2024), khai thác lịch sử người Đông
Dương tại Pháp và đang được dịch sang tiếng Việt. Ông cũng là đồng chủ nhiệm Dự
án Lưu trữ Nhóm Việt Nam tại Đại học Michigan State University và từng là đồng
tổng biên tập Journal of Vietnamese Studies (2018-2022).
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.