
Cựu Đại sứ Mỹ Ted
Osius chia sẻ News Tiếng Việt rằng sau mỗi cuộc chiến, hòa giải là điều cần
thiết bởi đó là cách quan trọng để cả hai bên – Mỹ và Việt Nam – có thể cùng
nhau bước tiếp về phía trước.
"Tôi đã viết cuốn Nothing
Is Impossible: America's Reconciliation with Vietnam (Không gì là không thể:
Sự hòa giải của Mỹ với Việt Nam) về tiến trình hòa giải giữa Mỹ và Việt Nam. Cuốn
sách không chỉ kể về thời gian tôi làm đại sứ, mà còn là câu chuyện về những
người hùng đi đầu trong công cuộc hòa giải – cả phía Mỹ lần phía Việt Nam – những
người đã nỗ lực không ngừng để hai cựu thù trở thành đối tác.
"Thực sự đã có
những con người rất dũng cảm từ cả hai phía, họ chấp nhận rủi ro rất lớn để gắn
kết hai nước lại với nhau. Và điều họ đã làm là xây dựng nên một mối quan hệ đối
tác – một mối quan hệ mà tôi tin rằng dựa trên nền tảng của sự tôn trọng và tin
tưởng lẫn nhau."
Trong cuốn sách của
Osius, nhiều cái tên được nhắc đến và chính họ đã truyền cho ông nguồn cảm hứng
để tiếp tục góp phần vào tiến trình hòa giải.
Đó là các thượng nghị
sĩ John McCain và John Kerry, cả hai đều là cựu chiến binh trong Chiến tranh Việt
Nam nhưng đã chọn gác lại quá khứ để cùng nhau thúc đẩy việc bình thường hóa
quan hệ giữa hai nước, đặc biệt trong việc giải quyết vấn đề tù binh và người mất
tích trong chiến tranh (POW/MIA).
Đó là cựu chiến
binh, đồng thời là cựu tù binh Pete Peterson, người đầu tiên giữ cương vị đại sứ
Mỹ tại Việt Nam, hơn hai thập kỷ sau khi vị đại sứ cuối cùng trước đó, Graham
Martin, rời Sài Gòn bằng trực thăng vào cuối tháng 4/1975. Peterson từng bị
giam 6 năm rưỡi tại nhà tù Hỏa Lò sau khi máy bay ông bị bắn rơi gần Hà Nội năm
1966.
Đó là đại sứ Việt
Nam đầu tiên tại Mỹ, ông Lê Văn Bàng, người đã chứng kiến toàn bộ quá trình đàm
phán bình thường hóa đầy thăng trầm trong quan hệ giữa hai quốc gia Việt Nam -
Hoa Kỳ.
Đó là cựu Bộ trưởng
Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, vị bộ trưởng ngoại giao mà ông Osius đánh
giá là "vĩ đại", người đã chấp nhận rủi ro lớn để đưa hai nước xích lại
gần nhau.
Cựu Đại sứ Ted Osius
nói rằng phải mất rất nhiều thời gian để xây dựng niềm tin giữa hai quốc
gia vốn khác biệt về mặt chính trị nhưng Việt Nam và Mỹ đã làm được.
"Và tôi nghĩ điều
đó đã cho thế giới thấy rằng: hoàn toàn có thể để hai quốc gia từng là kẻ thù
trở thành bạn bè và đối tác thân thiết nếu họ học cách hành động cùng
nhau."
Phiên điều trần nhằm điều tra số phận của các quân nhân Hoa Kỳ được liệt kê là mất tích trong Chiến tranh Việt Nam. John McCain (phải), một cựu binh từng bị thương nặng và là tù binh chiến tranh tại miền Bắc Việt Nam, là thành viên có tầm ảnh hưởng thứ ba trong ủy ban này.
Bình thường hóa muộn
gần 20 năm
Việt Nam bắt đầu bình thường hóa quan hệ với Mỹ từ năm 1994, khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại trong suốt 19 năm đối với Việt Nam.
Nhưng thực chất,
không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, đã có những nỗ lực thầm lặng nhằm dỡ bỏ
cấm vận kinh tế và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Trong cuốn sách, ông
Osius kể rằng, vào tháng 3 năm 1977, Tổng thống Jimmy Carter đã cử một phái
đoàn do Chủ tịch Liên đoàn Công nhân ngành Ô tô Leonard Woodcock dẫn đầu đến Hà
Nội để điều tra vấn đề POW/MIA (tù binh chiến tranh và những người mất tích
trong chiến tranh). Tiếp đó, vào tháng 5 năm 1978, Ngoại trưởng Cyrus Vance đã
chỉ đạo Trợ lý Ngoại trưởng Richard Holbrooke đàm phán với Việt Nam về việc
bình thường hóa quan hệ, với các cuộc đàm phán chính thức tại Paris và New
York.
Holbrooke đã đề xuất
sáu yêu cầu để bình thường hóa quan hệ, bao gồm: (1) tăng cường sự hợp tác của
Việt Nam với Hoa Kỳ về khả năng có tù binh còn sống và những người được coi là
mất tích trong cuộc xung đột; (2) Việt Nam chấm dứt đẩy người tị nạn ra biển bằng
tàu thuyền; (3) một sự đảm bảo rằng Việt Nam sẽ không xâm lược Campuchia (Hoa Kỳ
biết Hà Nội đang chuẩn bị làm điều đó); (4) chấm dứt việc Việt Nam làm thân với
Liên Xô; (5) Việt Nam sẽ chấm dứt nêu lên vấn đề chất độc da cam; và (6) Việt
Nam sẽ không còn đòi bồi thường chiến tranh.
Việt Nam đã đồng ý
các yêu cầu này, trừ vấn đề bồi thường chiến tranh.
Trung Quốc, nước đã ủng
hộ Việt Nam trong cuộc chiến tranh với Mỹ, cảm thấy bị phản bội khi Việt Nam đối
ngược lập trường trong các vấn đề tranh chấp lãnh thổ và chống lại Khmer Đỏ do
Trung Quốc chống lưng trong cuộc nội chiến tại Campuchia.
Sau khi Phó Trợ lý
Ngoại trưởng Bob Oakley tới New York vào tháng 11 năm 1978 để nói với người Việt
Nam rằng vụ này đã hỏng, ông Nguyễn Cơ Thạch đã bay thẳng tới Moscow và ký một
hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô và, một tháng sau, Việt Nam tiến vào
Campuchia để bảo vệ biên giới của họ khỏi các hoạt động xâm nhập của người
Campuchia – từ đó chấm dứt sự tàn bạo của Khmer Đỏ, chế độ đã cai trị Campuchia
từ năm 1975.
Một tháng sau cuộc tấn
công, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã có chuyến thăm lịch sử đến Mỹ
và nói với Tổng thống Carter rằng Trung Quốc sẽ dạy cho Việt Nam một bài học,
sau đó đã kéo dài thành một cuộc chiến tranh biên giới mười hai năm.
Do đó, việc bình thường
hóa quan hệ bị gián đoạn trong suốt những năm 1980, khi Việt Nam vẫn duy trì mối
quan hệ gần gũi với Liên Xô và tiếp tục cuộc chiến ở Campuchia.
Mãi đến năm 1990, một cuộc gặp giữa ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, và các quan chức Mỹ đã dẫn đến một lộ trình cụ thể để tiến tới bình thường hóa quan hệ. Điều kiện chính là Việt Nam phải hợp tác về việc tìm kiếm tù binh Mỹ và tham gia vào các cuộc đàm phán chính trị cho cuộc xung đột tại Campuchia.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.