"Ngày 2 tháng 7
năm 1776 sẽ là Kỷ nguyên đáng nhớ nhất trong Lịch sử Hoa Kỳ. Tôi tin rằng Ngày
này sẽ được các Thế hệ sau kỷ niệm như Lễ kỷ niệm lớn. Ngày này cần được kỷ niệm
như Ngày Giải thoát bằng các Hành động Tôn sùng trọng thể đối với Chúa Toàn
năng. Ngày này cần được long trọng tổ chức với Lễ hội và Diễn hành, với Lễ hội,
Trò chơi, Thể thao, Súng, Chuông, Lửa trại và Đèn chiếu sáng từ Đầu này của Lục
địa này đến Đầu kia từ Thời điểm này trở đi mãi mãi. Bạn sẽ nghĩ rằng tôi được
đưa đi với sự nhiệt tình nhưng tôi không phải vậy. Tôi nhận thức rõ về công sức,
Máu và Kho báu, rằng chúng ta sẽ phải trả giá để duy trì tuyên bố này, cũng như
hỗ trợ và bảo vệ các Tiểu bang này. Tuy nhiên, qua tất cả sự u ám, tôi có thể
nhìn thấy những tia sáng của Ánh sáng và Vinh quang rực rỡ. Tôi có thể thấy rằng
Mục đích còn đáng giá hơn tất cả các phương tiện. Và hậu thế sẽ cố gắng hết sức
trong giao dịch ngày đó, mặc dù chúng ta nên hối hận, điều mà tôi tin vào Chúa chúng ta sẽ không."- John Adams ngày 3
tháng 7 năm 1776.Trích dẫn này là một
đoạn trích từ bức thư của John Adams gửi cho vợ ông là Abigail vào ngày 3 tháng
7 năm 1776. Cảm xúc của người cha sáng lập sắc sảo này nói lên sự kiện trọng đại
này. Adams tin rằng ngày 2 tháng 7 năm 1776 sẽ là ngày đánh dấu và kỷ niệm mãi
mãi Tuyên ngôn Độc lập của chúng ta. Mặc dù ngày chính thức đến sau, người Mỹ
đã kỷ niệm ngày thành lập đất nước của họ và đã làm theo lời khuyên của Adams kể
từ đó. Adams đã chứng kiến và là một phần của giấc mơ Mỹ về tự do. Ông là một
ví dụ về cách quốc gia mới sẽ tiếp tục sau chiến tranh bằng cách trở thành phó
tổng thống đầu tiên và tổng thống thứ hai của chúng ta. Những lời hùng biện của
Adams đã nêu bật ý nghĩa lịch sử của nền độc lập của Hoa Kỳ và hậu quả của sự
thất bại nếu không đạt được.
Mặc dù Quốc hội Lục địa lần thứ hai đã ban hành sắc lệnh về tự do vào ngày 2 tháng 7 năm 1776, nhưng không ai ký vào Tuyên ngôn Độc lập. Quốc hội đã ký Nghị quyết Lee, được đặt theo tên của Richard Henry Lee người Virginia, vào ngày 2 tháng 7. Nghị quyết này bao gồm ba phần: tách khỏi Vương miện Anh, lời kêu gọi thành lập các liên minh nước ngoài và kế hoạch thành lập liên bang. Quốc hội chính thức thông qua Tuyên ngôn Độc lập hai ngày sau đó, ngày 4 tháng 7 năm 1776, và hồi chuông tự do đã vang lên tại Independence Hall với Chuông Tự do. Người Mỹ vui mừng khi tin tức lan truyền khắp các tiểu bang mới tuyên bố độc lập. Mặc dù nền độc lập đã được tuyên bố, các đại biểu của Quốc hội Lục địa vẫn chưa ký tên vào văn bản. Vào ngày 2 tháng 8 năm 1776, khi hầu hết các đại biểu ký vào Tuyên ngôn Độc lập, nó đã trở thành chính thức.
Thật không may, người Mỹ nhận được tin tốt và tin xấu cùng lúc. Quân đội Anh đang đổ bộ vào New York khi Chuông Tự do vang lên ở Philadelphia. Vào thời điểm đó, quân đội Mỹ và Anh đã tham gia vào cuộc xung đột vũ trang trong mười lăm tháng. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1776, Tướng George Washington, trong khi tập trung quân đội ở Thành phố New York, đã ra lệnh đọc to Tuyên ngôn Độc lập cho quân lính của mình. Ông hy vọng rằng họ sẽ tìm thấy ý nghĩa mới trong cuộc chiến giành độc lập.
Năm 1777, quân Anh
chiếm đóng thủ đô Philadelphia trong khi Washington và quân lính của ông phải vật
lộn trong mùa đông khắc nghiệt tại Valley Forge, Pennsylvania. Gần hai nghìn
trong số mười hai nghìn người của Washington đã chết trong trại mùa đông đó.
Quân đội Lục địa đã trở nên cứng rắn hơn nhờ kinh nghiệm này và có được quyết
tâm lớn hơn nữa trong chiến dịch đánh bại quân Anh. Trong bốn năm tiếp theo,
người Mỹ sẽ chiến đấu hết trận này đến trận khác với quân đội hùng mạnh nhất
trên trái đất.
Nhờ sự lãnh đạo quân sự của Washington, và những nỗ lực chung của Hải quân Pháp và người bạn tốt kiêm đồng minh của Washington, Tướng Hầu tước de Lafayette, người Anh đã đầu hàng sau Cuộc vây hãm Yorktown vào ngày 19 tháng 10 năm 1781. Cuộc chiến giành độc lập đã kết thúc. Hiệp ước Paris, được ký kết giữa Hoa Kỳ và Anh vào ngày 3 tháng 9 năm 1783, đã chính thức hóa điều này. Hoa Kỳ đã trở thành một quốc gia có chủ quyền và độc lập sau sáu năm anh dũng và hy sinh.
Cuộc đấu tranh để giữ cho ngọn đuốc tự do luôn cháy sáng cho đến ngày nay có thể được nhìn thấy khi người ta đi qua National Mall và công viên tưởng niệm. Kể từ chiến tranh cách mạng, Hoa Kỳ đã chiến đấu trong nhiều cuộc chiến để bảo vệ tự do; tất cả đều phải trả giá rất đắt. Tự do vang lên ngày nay cũng to lớn như tại Independence Hall ở Philadelphia vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, nhờ vào quyết tâm của chúng ta với tư cách là một quốc gia và một dân tộc. Công viên này là nơi lưu giữ ký ức về quá khứ của quốc gia chúng ta, và chúng ta tôn vinh những gì người Mỹ đã đạt được kể từ thời những người sáng lập. Đây là nơi chúng ta tôn vinh sự hy sinh của những người đã mất để bảo vệ tự do.
Khi đến thăm Đài tưởng
niệm Chiến tranh thế giới thứ II, du khách sẽ thấy dòng chữ "Chúng ta đánh
dấu giá trị của tự do" được khắc trước bức tường có 4.048 ngôi sao vàng. Mỗi
ngôi sao tượng trưng cho một trăm người Mỹ đã hy sinh trong chiến tranh. Tại
Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Triều Tiên, du khách sẽ thấy dòng chữ
"Tự do không miễn phí" và tại Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến
tranh Việt Nam, du khách sẽ thấy tên của 58.261 sinh mạng được vinh danh vì
lòng dũng cảm, sự hy sinh và lòng tận tụy với nghĩa vụ và đất nước. Abraham
Lincoln được phủ cờ Hoa Kỳ tại Đài tưởng niệm Lincoln. Ông không chỉ bảo vệ quốc
kỳ của chúng ta trong Nội chiến Hoa Kỳ mà các chính sách của ông còn giúp chấm
dứt chế độ nô lệ. Sáu trăm hai mươi nghìn người Mỹ, cả miền Bắc và miền Nam, đã
thiệt mạng trong cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử của chúng ta. Thông điệp
trở nên rõ ràng khi du khách trải nghiệm những đài tưởng niệm này; tự do đã phải
trả giá rất đắt.
Khi chúng ta kỷ niệm
ngày thành lập quốc gia, Cục Công viên Quốc gia sẽ tự hào tiếp nối lời của John
Adams—"Lửa trại và Ánh sáng từ đầu này đến đầu kia của Lục địa này từ Thời
điểm này cho đến mãi mãi"—bằng màn bắn pháo hoa rực rỡ. Những ánh đèn này
sẽ thắp sáng bầu trời thủ đô của đất nước chúng ta để truyền cảm hứng và nhắc
nhở chúng ta rằng chúng ta may mắn như thế nào khi có được sự tự do mà tất cả
chúng ta đều được trao phó."
Những người ký Tuyên
ngôn
Tuyên ngôn Độc lập được thông qua vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Hầu hết các đại biểu của Quốc hội Lục địa lần thứ hai đã ký vào văn bản này vào ngày 2 tháng 8 năm 1776. Bằng cách ghi tên mình vào tờ giấy này, những người đàn ông này có nguy cơ mất tất cả nếu người Anh giành chiến thắng trong Cách mạng Hoa Kỳ. Mặc dù người Mỹ đã giành chiến thắng, một số người đàn ông này đã phải chịu tổn thất nặng nề vì ủng hộ nền độc lập. Bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin về những người ký và đài tưởng niệm họ trong Constitution Gardens (nơi này đóng cửa vào ngày 4 tháng 7 do nằm trong khu vực an toàn cho pháo hoa).

No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.