Một chuyên gia lâu
năm về chính trị Việt Nam nhận định có tám lý do để gọi chuyến thăm Mỹ của Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng là mang tính lịch sử.
Viết trên trang The
Diplomat, giáo sư người Úc Carl Thayer nói việc Tổng thống Obama tiếp ông Trọng
trong Phòng Bầu dục tại Nhà Trắng chứng tỏ Mỹ trên thực tế công nhận vai trò của
Đảng Cộng sản trong nhà nước một đảng ở Việt Nam, và tầm quan trọng của chức vụ
tổng bí thư trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Nếu Tổng thống Obama
thăm Hà Nội trước khi mãn nhiệm, điều này sẽ càng chứng tỏ Mỹ tôn trọng hệ thống
chính trị Việt Nam. Chuyến thăm Mỹ của ông Trọng cũng đặt tiền lệ cho những
chuyến thăm sau này của người nắm chức lãnh đạo Đảng Cộng sản.
Lý do thứ hai, tuyên
bố chung hai phía nói “cả hai nước khẳng định tiếp tục theo đuổi một mối quan hệ
sâu sắc, lâu bền và thực chất trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hiệp quốc,
luật pháp quốc tế, và hệ thống chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau”. Theo ông Carl Thayer, các nhân vật “bảo thủ về ý thức hệ” tại Việt
Nam lâu nay vẫn nghi ngờ Mỹ định lật đổ chế độ tại Việt Nam. Nhưng sau khi ông
Trọng được Obama đón tiếp, và Mỹ khẳng định tôn trọng hệ thống chính trị Việt
Nam, điều này “chứng tỏ cái nhìn thế giới lạc hậu của các nhân vật bảo thủ ý thức
hệ của Việt Nam”.
Thứ ba, hai nhà lãnh
đạo cam kết thúc đẩy thỏa thuận quan hệ đối tác toàn diện năm 2013 bằng việc
tăng cường các chuyến thăm cao cấp, tạo cơ chế thi hành hợp tác trong chín lĩnh
vực đã đề ra năm 2013. Hôm 7/7, Việt Nam và Mỹ đã ký 4 thỏa thuận, bao gồm việc
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hỗ trợ nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp
Quốc, hợp tác giải quyết các mối đe dọa đại dịch và hỗ trợ kỹ thuật cho vấn đề
an toàn hàng không.
PetroVietnam và
Murphy Oil cũng đã ký thỏa thuận hợp tác chung, Đại học Harvard được nhận quyền
thiết lập trường Fulbright ở Việt Nam và Việt Nam nhận chiếc máy bay Boeing 787
Dreamliner đầu tiên.
Thứ tư, hai bên cam
kết hợp tác với các quốc gia khác để hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác Kinh tế
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và thực thi cải tổ cần thiết để đạt được thỏa thuận.
Thứ năm, hai bên cam
kết cùng hợp tác để đóng góp vào hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực
châu Á-Thái Bình Dương ở cả song phương và đa phương, thông qua các tổ chức khu
vực như APEC, ASEAN, hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN cộng và hội nghị Thượng
đỉnh Đông Á.
Thứ sáu, hai bên đã
đặt ra cơ sở để giải quyết vấn đề căng thẳng trên Biển Đông. Tuyên bố chung giữa
hai nước nhắc lại lập trường hai bên, rằng tranh chấp hàng hải cần phải được giải
quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế và hòa bình.
Tuy vậy, lãnh đạo
hai nước cũng nói: “Cả hai nước đều quan ngại về những diễn biến mới đây ở Biển
Đông đã làm gia tăng căng thẳng, xói mòn lòng tin, và đe doạ phá hoại hoà bình,
an ninh và ổn định. Hai bên công nhận sự cấp bách của việc duy trì các quyền tự
do hàng hải và hàng không bên trên vùng biển được quốc tế công nhận; thương mại
hợp pháp không bị cản trở, an ninh và an toàn hàng hải; kiềm chế các hành động
làm tăng căng thẳng; bảo đảm rằng mọi hành động và hoạt động được tiến hành
tuân thủ luật pháp quốc tế; và bác bỏ sự cưỡng ép, đe doạ, và sử dụng hay đe doạ
sử dụng vũ lực.”
Theo giáo sư Carl
Thayer, điều này chứng tỏ “sự trùng hợp lợi ích chiến lược đáng kể liên quan Biển
Đông”.
Thứ bảy, ông Obama
và ông Trọng đồng ý tăng cường mối quan hệ hợp tác về an ninh và quốc tế trên
phương diện an ninh hàng hải, nhận thức về an ninh hàng hải, thương mại quốc
phòng và trao đổi công nghệ quốc phòng.
Việt Nam chưa nói rõ
quan tâm đến vũ khí và công nghệ nào của Mỹ một khi lệnh cấm bán vũ khí của Mỹ
chưa được dỡ bỏ hoàn toàn. Tuy vậy, Mỹ khẳng định sẽ chỉ tập trung nâng cao an
ninh hàng hải cho Việt Nam và năng lực của lực lượng Cảnh sát biển.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.