Wednesday, October 26, 2011

Nhà thơ: Nguyễn Khuyến

image


Trong Văn Học Việt Nam, những nhà thơ lớn đều là những nhà thơ dân tộc. Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, chữ "dân tộc" thật gần gũi, thích hợp, và sáng chói hơn cả. Dù ông không có bản văn hùng tráng như ''Bình Ngô Đại Cáo '' của Nguyễn Trãi, những bài thơ trau chuốt như Bà Huyện Thanh Quan, hay nhiều bài thơ đạo lý răn đời như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng nơi Nguyễn Khuyến, có một tấm lòng lai láng với cảnh vật non sông, chan chứa sự thông cảm với dân lành, đề cao tình bạn rạng ngời, và nhất là một lòng yêu nước sâu sa. Chúng ta sẽ cùng nhìn lại cuộc đời và thi phẩm của ông, để thấy rõ tài năng và tâm hồn một nhà thơ xuất sắc của dân tộc.

I. NHÀ THƠ CỦA NÔNG THÔN



image


Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 và mất năm 1909, thọ 74 tuổi . Trừ thời gian làm quan và lên Hà Nội dạy học, ông đã sống ở quê nhà hơn 40 năm. Do đó, ông thật hiểu biết từ bụi tre, ao cá, ruộng vườn. đến làng xóm, dân tình, phong tục. Dưới ngòi bút của ông, nông thôn Việt nam trở thành thật đẹp, thật gần, với những hình ảnh rõ ràng, sinh động:

Trâu già góc bi phì hơi nng
Chó nh
bên ao cn tiếng người
V
i nhng tiếng tht Vit Nam
Năm gian nhà c
thp le te
Ngõ t
i đêm sâu đóm lp lòe

Đặc biệt là khi tả cảnh thu, rõ ràng là mùa thu của quê hương . Nguyễn Khuyến trở thành thi sĩ của mùa thu với ba bài thơ bất hủ : Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh . Tuy rằng trước kia cũng có những nhà thơ tả cảnh thu, nhưng có vẻ như mượn cảnh sắc Trung Hoa và đầy khuôn sáo như thơ thời Hồng Đức.
Lác đác ngô đng my lá bay
Tin thu heo ht lt hơi may.
(Hồng Đức quốc âm thi tập)

So với những câu thơ của Nguyễn Khuyến, thật không tạo ấn tượng bằng :
Ao thu lnh lo nước trong veo
M
t chiếc thuyn câu bé to teo
Sóng bi
ếc theo làn hơi gn tí
Lá vàng tr
ước gió s đưa vèo
(Thu điếu)

Ngay cả khi tả cảnh ngôi chùa cũ kỹ cùng với một nhà sư đơn độc, ông cũng dùng những hình ảnh thật đẹp :
Chùa xưa ln cùng cây đá
Sư c nm chung vi khói mây
(Nhớ cảnh Chùa Đọi)

Nhưng đó là hình ảnh "sương khói" rất ít gặp nơi thơ Nguyễn Khuyến, còn phần nhiều là những hình ảnh quen thuộc, chất phác, gắn liền với dân quê như : con trâu, con gà, ngõ trúc, đường làng, khúc sông, bãi chợ, vườn cà, cây cải, ao cá, bờ tre.
Tng mây lơ lng tri xanh ngt
Ngõ trúc quanh co khác vng teo
(Thu điếu)

Tuy nhiên, cái làm cho Nguyễn Khuyến thực sự là nhà thơ của nông thôn, không phải chỉ là những bài thơ tả cảnh, mà là tình cảm của ông đối với những người chân lấm tay bùn. Ông thật thông cảm với đời sống cực nhọc của dân, một nắng hai sương, lại thêm cảnh vỡ đê lụt lội, nghèo túng, làm ăn thất bát, nợ nần ''lãi mẹ đẻ lãi con ". Có thể nói rằng : với Nguyễn Khuyến, thơ văn Việt Nam "lội xuống ruộng đồng " và cảm thông sâu sắc với đời sống dân quê, để nghe :
Ình ch đêm qua trng các làng
Ai ai mà chng rước xuân sang
(Khai bút )

Vui với tiếng trống xuân đấy, nhưng rồi cũng để thấy :
Năm nay cày cy vn chân thua
Chiêm m
t đàng chiêm, mùa mt mùa
(Chốn quê)

Ông đã cùng sống với cảnh khổ của dân
Sm trưa dưa mui cho qua ba
Ch
búa tru chè chng dám mua
( Chốn quê)

Và ngậm ngùi với dân :
Quai m Thanh Liêm đã l ri
Vùng ta thôi cũng l
t mà thôi
(Nước lụt Hà Nam)

Hai chữ "Vùng ta" của Nguyễn Khuyến thật gần gũi, chí tình ; như chính ông với quê hương, làng nước.
Tuy nghèo khổ, lam lũ, nhưng tình cảm con người với nhau ở thôn quê thật thân thiện :
Chú Đáo bên làng lên vi t
Ông t
xóm ch li cùng ta.
(Lên lão)

Và :
Cng reo tr đón, ông v đó
Gy chng già chào : bác đy a ?
(Hoàn gia tác )

image


Nguyễn Khuyến sống chan hoà với nông dân, người ta kể : khi ông đi dạo trong làng, gặp những cụ già, ông đã dừng lại mở cơi trầu, mời họ ăn và chuyện trò thật đằm thắm. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Khuyến có 1 tâm hồn thật bình dân. Và Văn học sử cho ta thấy : chưa có 1 quan lớn tổng đốc nào lại đi làm câu đối, câu phúng điếu cho người láng giềng, bà
thông gia, anh thợ rèn, chị thợ nhuộm, chị hàng thịt. Những câu thật đẹp, thật hay, và cũng chứa đầy tình cảm, đôi khi có chút hài hước bên trong, như câu đối cho chị vợ anh hàng thịt để treo trong nhà :
T thi bát tiết canh chung thu
Ngn liu đôi b dc đim trang
(Bốn mùa, tám tiết bền chung thuỷ
Dặm liễu, gò bồ, muốn điểm trang)

Hai câu thơ nói lên sự thông cảm với nỗi lòng người goá phụ, nhưng cũng có những hình ảnh phù hợp với nghề nghiệp của cặp vợ chồng :" bát tiết canh, đôi bồ dục". Thật là hóm hỉnh, sâu sa.

Quả thật, trước kia cũng có những nhà thơ tả cảnh nông thôn, nhưng vẫn còn ít nhiều xa lạ với phong cảnh Việt Nam. Sau này, tuy có những thi sĩ như Đoàn văn Cừ, Bàng bá Lân, Nguyễn Bính, Anh Thơ đã vẽ ra nhiều nét đẹp làng quê và tâm tình người nông thôn; nhưng tấm lòng họ dành cho làng xóm và thân phận tối tăm của người dân quê, thật không bằng Nguyễn Khuyến . Chỉ có ít nhà văn sau này như Ngô tất Tố với "Tắt Đèn", Nguyễn công Hoan với "Bước đường cùng", là có thể thấy và mô tả được như ông, nhưng đó là văn xuôi và là cái nhìn của mấy chục năm sau. Có thể nói rằng : trước và sau đó, chưa có nhà thơ nào có bức tranh sinh động về làng nước và chan chứa với mối cảm thông với đời
sống cực nhọc của dân, qua đó để lại ấn tượng sâu đậm cho đời, bằng nhà thơ Nguyễn Khuyến.


II. NHÀ THƠ CỦA TÌNH BẠN

Dân tộc chúng ta luôn yêu chuộng hòa bình và có tính hiếu khách, từ đó dễ thân quen và coi trọng tình bạn. "Lưu Bình Dương Lễ" là câu chuyện thật cảm động, nói lên truyền thống ngàn đời "trọng tình bạn" của dân tộc chúng ta.

Là 1 nhà thơ giầu tình cảm, Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ khi nói về tình bạn, những bài thơ bất hủ của ông khi đề cập đến bạn là những minh chứng hùng hồn sâu sắc , quả thật là những tình bạn nên thơ :

Ai lên nhn hi bác Châu Cu
L
t li năm nay bác đâu ?
(Nước lụt thăm bạn)

Hai câu đầu của bài thơ "Nước lụt hỏi thăm bạn" thật tự nhiên, thân tình. Rồi sau đó hỏi cả ổ lợn con, gian nhà chứa lúa nếp; với đôi chút hóm hỉnh pha trò về tính keo kiệt của bạn, cùng lời khuyên thật nhẹ nhàng với những thú chơi thanh tao:

Phn thua suy tính càng thêm thit
Tui c chơi bi ho sng lâu

Và sau cùng là chút tin tức của mình :

Em cũng chng no mà chng đói
Thung thăng chi
ếc lá, rượu lưng bu

Đối với bác Châu Cầu là vậy, còn khi Cụ Tam nguyên tiếp khách thì sao? Nhà thơ của chúng ta tuy không keo kiệt, nhưng nhà nghèo, chả có gì đãi khách, bèn hài hước viện cớ từ đầu:

Đã by lâu nay bác ti nhà
Tr thi đi vng, ch thi xa

Rồi thì thịt cá chẳng có, rau cỏ cũng không. Sau khi bóc trần hết các nghi thức xã giao : cái gì cũng không có, chỉ còn lại là :" Bác đến chơi đây, ta với ta ". Thật ngộ nghĩnh buồn cười cho 1 tình bạn dễ thương, vì chứa đầy lòng chân thật. Một tình bạn đằm thắm, vui tươi. Nhưng cảm động nhất khi nói về tình bạn của Nguyễn Khuyến, phải kể đến bài thơ "Khóc Dương Khuê" â, 1 bài thơ để đời và là mẫu mực của tình bạn, qua đó chúng ta thấy nhà thơ thương bạn, quý bạn đến mức nào :

Bác Dương thôi đã thôi ri
Nước mây tan tác ngm ngùi lòng ta

Hai câu mở đầu thật ngỡ nàng, chua xót trước tin bạn mất; Rồi những câu kế tiếp mở ra 1 ký ức thâm giao từ thuở đăng khoa, đến "sớm hôm tôi bác cùng nhau "đèn sách, khi thì vui ngoài thiên nhiên với "suối reo róc rách lưng đèo",khi thì vui nơi "tầng gác cheo leo" với bài ca chén rượu ; nhớ những ngày "cùng nhau hoạn nạn", sớm tối có nhau như "duyên trời" cho gặp gỡ. Thế mà bác đã vội về ngay để" lên tiên", còn lại trên đời người bạn ngậm ngùi chua xót :

Rượu ngon không có bn hin
Không mua không phi không tin không mua
Câu th
ơ nghĩ đn đo mun viết
Vi
ết đưa ai, ai biết mà đưa
Gi
ường kia treo nhng h h
Đàn kia thôi g
y, ngn ngơ tiếng đàn.

Và cảm động nhất là 4 câu thơ cuối, với tâm tình níu kéo, nhớ thương, của người bạn già cô độc, khi những người thân ngày càng vắng bóng, làm cho nước mắt như cũng không còn trong nỗi đau vô tận :

Bác chng , du van chng
Tôi tuy th
ương, ly nh làm thương
Tu
i già ht l như sương
H
ơi đâu ép ly hai hàng cha chan.


III. NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG

image

Khôi hài là 1 đặc tính của dân tộc Việt nam, nói lên tinh thần lạc quan đối với con người và cuộc sống. Nguyễn Khuyến đã thừa hưởng và góp phần phát huy đặc tính đó. Với thơ ca, ông đã thực sự là 1 nhà thơ trào phúng : cười người và cười mình. Với cớ đau mắt, Nguyễn Khuyến đã từ quan về hưu, sống với dân làng. Nhưng lý do chính là : ông không muốn cộng tác với thực dân Pháp và triều đình bù nhìn để bóc lột dân. Vì ông thấy rằng : trong 1 xã hội mà Vua quan đều như "phường chèo", thì ông chả làm được gì, dù có danh vị tiến sĩ như ông thì cũng chỉ như là "tiến sĩ giấy" :

Ghế chéo lng xanh ngi bnh che
Nghĩ r
ng đ tht, hoá đ chơi.
(Vịnh tiến sĩ giấy)

Dưới ách đô hộ của thực dân và phong kiến, cái nghèo khổ như 1 màn đêm bao trùm đất nước, trừ 1 ít người ngay chính, chỉ có những kẻ ăn mảnh, đi đêm với thực dân như quan kinh lược Bắc Kỳ Hoàng cao Khải, Tổng đốc Vũ văn Báo, quan tuần Tiên Khoán, quan huyện Thanh Liêm, ông tổng Cóc mới trở nên giầu nhờ vơ vét của dân. Thương dân, Nguyễn Khuyến bênh họ bằng cái cười để các quan lại bỏ thói bợ đỡ các quan Tây, bớt hà hiếp dân lành :

Có tin vic y mà xong nh
Ngày tr
ước làm quan cũng thế a ?
(Vịnh Kiều bán mình)

Hoặc :

Ch ct túi mình cho nng cht
Trăm năm m
c k tiếng chê khen
(Tặng Đốc Học Hà Nam)

Nhà thơ đã cười và khuyên quan tuần , người màsau khi bị mất cướp, lại còn ê ẩm bộ xương già da cóc giữa đồng :

Thôi cũng đng nên ky cóp na
K
o mang tiếng di vi phường ngông
(Thăm quan Tuần mất cướp)

Ngay cả kinh lược đại thần Hoàng cao Khải, tay sai số 1 của thực dân Pháp trên đất Bắc, ông cũng chẳng nể nang khi ứng khẩu đọc 4 câu thơ tả "Ông phỗng đá" mà chính quan ra đề :

Ông đng làm chi đó hi ông
Tr
ơ trơ như đá vng như đng
Đêm ngày gìn gi
cho ai đó
Non n
ước đy vơi có biết không?

Đây là ông Phỗng hay chính là quan phụ mẫu chi dân ? Nhưng cái cười hay nhất và đẹp nhất của Nguyễn Khuyến, là tự cười mình. Đây là cả 1 nghệ thuật mà nếu không có tâm hồn như ông, khó có thể làm được. Khác với nhà thơ Tú Xương có cái cười chửi đời, ngông
nghênh; Nguyễn Khuyến thường mượn cái cười để bộc bạch tâm sự.

Là 1 nho sĩ thành đạt, Nguyễn Khuyến đã bước vào hoạn lộ với tấm lòng yêu nước thương dân. Ông tin tưởng vào tài năng, chức vụ, và nhất là lòng chân thành của mình, có thể giúp triều đình tế thế an dân, đem lại ấm no cho trăm họ. Thế nhưng với sự sáng suốt, ông cũng đã nhìn ra rất sớm 1 triều đình nhu nhược, bù nhìn trước sức mạnh của người Pháp, và sự đổ vỡ chua cay của nền Hán học :

Sách v ích gì cho bui y
Áo xiêm nghĩ l
i thn thân già
(Ngày xuân dặn các con)

Với tâm sự u uất :

Nghĩ đến bút nghiên trào nước mt
Ng
ước nhìn sông núi xiết bun đau

Thế rồi ông xoay ra cười mình, với nụ cười chua chát :

Nghĩ mình li gm cho mình nh
Th
ế cũng bia xanh, cũng bng vàng
(Tự trào )

Ông đã can đảm từ quan để về làm 1 người dân :

Cũng chng giu mà cũng chng sang
Ch
ng gy chng béo ch làng nhàng
Lúc h
ng đánh thêm ba chén rượu
Khi bu
n ngâm láo my vn thơ
(Tự Trào )

Và để hiểu sâu hơn cái cười và tâm hồn của nhà thơ, chúng ta cùng nhìn sang 1 khía cạnh khác của ông : đó là lòng yêu nước chân thành, sâu sắc.

IV. NHÀ THƠ YÊU NƯỚC

image

Năm 1883, với hoàước Harmand, triều đình nhà Nguyễn đã đặt nước Nam dưới sự bảo hộ của Thực dân Pháp. Vì muốn dùng thanh danh của Nguyễn Khuyến để lung lạc các sĩ phu trong nước, triều đình cử ông làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên . Ông đã lấy cớ đau mắt để từ quan về hưu, cho đây là hành động "dũng thoái", năm đó ông mới 50 tuổi; và bài thơ "Trở về vườn Bùi" là 1 minh định lập trường của ông : không cộng tác với Pháp, rời bỏ triều đình nhu nhược để trở về với dân.

Thế nhưng chỉ ít lâu sau, ông cảm thấy hành động của mình như 1 trốn tránh trách nhiệm, tiêu cực cầu an. Và tâm trạng day dứt buồn đau này đã theo ông cho tới cuối dèời. Một đàng vì sức khoẻ yếu kém, nên ông không thể cùng các bạn đồng liêu như Ngự sử Phan đình Phùng , Tán lý quân vụ Nguyễn thiện Thuật cầm vũ khí chống Tây, đàng khác thấy cảnh nước mất nhà tan mà mình lại rút lui, bất lực . Hành động từ quan mà ông cho là "dũng thoái" lúc ban đầu, nay ông lại đem ra để chế diễu chính mình, cho rằng mình đã chạy làng lúc đất nước điêu linh:

C đương d cuc không còn nước
B
c cha thâu canh đã chy làng
(Tự thán)

Trong lòng ông chứa đựng 1 mâu thuẫn lớn lao : có 1 Nguyễn Khuyến thanh cao luôn muốn làm những điều ích quốc lợi dân ; lại như có 1 Nguyễn Khuyến khác cam chịu, "chạy làng", dấn thân vào "hội lạc".Và nơi ông, con người thứ 2 như thắng thế, nên ông luôn thán phục những người dũng cảm như ông nghè Dao Cù đã khởi nghĩa chống Pháp và bị tử hình: "con thiêu thân" chết khi thân hình vẫn luôn cháy sáng ; ông chế diễu những quan lại tay sai, và mượn hình ảnh "chuột ăn lúa" để chỉ trích chính Thực dân . Thế nhưng điểm chính, vẫn là nói về thái độ sống của mình; khi thì cười mình như 1 người đứng ngoài cuộc; khi thì coi mình như Mẹ Mốc, 1 gái goá thủ tiết thờ chồng như 1 sĩ phu trung thành với xã tắc non sông :

Sch như nước, trng như ngà, trong như tuyết
M
nh gương trong vng vc quyết không nhơ.
(Mẹ Mốc)

Ông mượn chén rượu và cơn say để giãi bày tâm sự :

Ba phn tóc bc càng thêm ti
M
t tm lòng son vn có tha
Ch
trách bên song say khướt mãi
Không say thì t
nh vi ai kia ?

Và rõ hơn nữa là :
Tuý ông ý chng say vì rượu
Say vì n
ước thm vi non cao
(Uống rượu ở Vườn Bùi )

Rồi như Bà Huyện Thanh Quan, ông đã mượn hình ảnh tiếng chim cuốc kêu để tỏ bày lòng yêu nước :
Có phi tiếc xuân mà đng gi
Hay là nh
nước vn nm mơ
(Cuốc kêu cảm hứng )

Nhưng có lẽ đẹp nhất, vẫn là hình ảnh "Ông phỗng đá" mà ông mượn để khoác cho mình, một ông phỗng mà :

H ngước mt nhìn, ch thy non sông m đm
Đành t
dung thân nơi ngòi lch tm thường
(Tặng Thạch Lão ông )

Thương thay cho 1 pho tượng mà vì gặp khói lửa loạn ly , nên phải đắm chìm trong cỏ dại, để như điếc, như ngây :

Trong thiên h có anh gi điếc
Khéo ng
ơ ngơ ngác ngác, ng là ngây
Tr
ơ trơ như đá, vng như đng
(Vịnh Thạch Lão )

Ở đây, chúng ta không thấy 1 Nguyễn Khuyến tiêu cực, chán đời như ông khiêm tốn vẽ qua thơ ca của mình. Ngược lại, là hình ảnh của 1 người thiết tha yêu đời, yêu nước. Giữa một xã hội mà Vua Quan như "hề chèo", thì nhân cách của ông thật rực rỡ biết bao. Và điều quý hơn cả, là sự thành thực nội tâm của nhà thơ : ông không tự vẽ mình như 1 mẫu mực phải theo, nhưng như 1 cụ già cố giữ gìn phẩm chất, luôn gắng sức vươn lên để sống thanh cao. Cái cười của Nguyễn Khuyến là cái cười phảng phất nỗi buồn, vì đó là cái cười đạo đức của 1 người đầy tâm huyết, tài năng trước hiện tình đất nước thời bấy giờ, thật đáng cho chúng ta khâm phục.

 
V. KẾT LUẬN : TỪ GIỌT LỆ ĐẾN NIỀM VUI .

Bà cụ Đà, là cháu nội của nhà thơ Nguyễn Khuyến, đã kể rằng : Vào cuối đời, cụ Tam Nguyên sống âm thầm, buồn tủi. Mỗi lúc hoàng hôn sắp xuống, cụ ngồi trầm ngâm ngoài sân với hai ông phỗng đá, rót rượu vào ba ly, nâng chén mời, và tự uống phần mình; Rồi buồn rầu xoa đầu 2 pho tượng và uống hộ cho cả hai. Sau đó cụ ngồi thừ người một lúc, rồi cúi đầu, lặng lẽ bưng mặt khóc.

Giọt lệ chí tình của nhà thơ đã để lại cho chúng ta nhiều xúc động và suy nghĩ, cũng như chính cuộc đời và những thi phẩm của ông . Chúng ta cảm thông với những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Và hôm nay, chúng ta có thể nở nụ cười vui mừng vì Văn Học Việt Nam đã có 1 nhà thơ như thế. Nguyễn Khuyến đã "dân tộc hoá " phong cảnh nông thôn, "cụ thể hoá" cuộc sống lam lũ nhưng không kém phần thơ mộng của dân lành, "thi vị hoá" tình bạn, cười cái đáng cười và khóc điều đáng khóc trong xã hội, và nhất là đã yêu mến quê hương với 1 tấm lòng chân thật, khiêm nhường. Chúng ta hân hoan vì Văn Học Việt Nam có Nguyễn Khuyến, 1 nhà thơ tài năng, đạo đức, một gương mẫu để chúng ta noi theo. Nhà thơ Nguyễn Khuyến, với lòng yêu nước và thương dân, đã đi vào Văn Học Sử và sẽ mãi mãi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người.


PHỤ LỤC I : NHỮNG GIAI THOẠI VỀ NGUYỄN KHUYẾN

1. Lạy "cột "

Vì Nguyễn Khuyến là 1 nhà Nho có danh vọng, những việc làm của ông có thể có ảnh hưởng đến các sĩ phu yêu nước. Nên bọn quan lại tay sai của Pháp dẫn ông đến gặp công sứ Pháp của thành Nam (Hà nam-Nam Định), dặn cụ lạy hắn khi ra mắt. Gặp viên công sứ, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất cung kính, loay hoay sửa áo sửa khăn, rồi bỗng chắp tay lạy ngay cái cột bên cạnh hắn, miệng xuýt xoa :" Lạy cụ lớn ạ ". Lũ quan có mặt, tuy sợ phật ý quan Tây, nhưng cũng phải bật cười ồ. Nguyễn Khuyến ra vẻ ngơ ngác, ậm à xin lỗi :

- Chết thật, mắt tôi kém nên chả nhìn thấy rõ, có điều gì không phải, xin cụ lớn và các quan bỏ lỗi cho.

Công sứ Pháp lắc đầu ngán ngẩm, hỏi han qua quýt, rồi sai người dẫn ông về.

2. Chày đứng

Đình của làng bên năm nào cũng cháy, dân làng mới dựng lại ngôi đình khác và sang xin nhà thơ Nguyễn Khuyến vài chữ để treo, vì tin rằng ông vốn hay chữ, chắc sẽ trị được "Hoả thần". Ông bảo người nhà lấy giấy bút, vẽ cho 1 chữ "Nhất" thẳng đứng, chỉ tội hai đầu hơi to ; với lời dặn dò nên cẩn thận củi lửa vào mùa khô.

Năm đó, đình làng không cháy, dân làng ca ngợi và cho người sang khoe, luôn tiện hỏi ý nghĩa chữ ông đã viết để" trấn" thần lửa. Ông hóm hỉnh trả lời :

Nào tôi có viết chữ gì đâu, tôi chỉ có vẽ cái "chày đứng", nghĩa là "đừng cháy" đó mà .

Điều quan trọng là dân làng đã để ý canh chừng củi lửa, nên đã thoát khỏi nạn cháy đình.

3. Vợ người thợ nhuộm khóc chồng

Bên cạnh nhà Nguyễn Khuyến có đôi vợ chồng người thợ nhuộm. Chẳng may anh chồng qua đời, để lại vợ dại con thơ. Chị vợ sang xin nhà thơ 1 câu đối để khóc chồng; ông lấy giấy bút ra, viết ngay hai câu :

Thiếp từ thuở lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đó.

Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.


Hai câu thơ đã nói lên mối tình thắm thiết của người vợ khóc chồng, lại có cả mầu xanh đỏ tím vàng . của nghề thợ nhuộm. Quả thật là một câu đối đầy mầu sắc.

4. Đón quan

Con trai cả của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan ; làm tri phủ Lý nhân. Một hôm có việc về làng Vĩnh Trụ, dân làng đón rước chậm trễ, tri phủ sai nọc lý trưởng ra đánh, ông này lại là chú vợ của quan.

Ít lâu sau, quan phủ về làng Yên Đổ, vừa về đến đầu làng, thì trong đám dân đứng đón, có 1 cụ già khăn áo chỉnh tề, bước ra trước mặt quan, cung kính chắp tay vái :

- Lạy quan lớn ạ.

Vừa thấy bố, quan phủ hoảng hốt, nhảy vội ra khỏi võng sụp lạy :

- Con lạy thày, thày tha cho, xin đừng làm vậy.

Nguyễn Khuyến tảng lờ như không, lễ độ nói :

- Nghe tin quan lớn về làng, tôi tuy già yếu, cũng phải thân hành ra đón, kẻo quan lại trách tôi vô lễ mà cho mấy roi như lý trưởng làng Vĩnh Trụ, thì tôi chịu sao nổi.

Nguyễn Hoan biết ý bố muốn dạy mình, vội xin lỗi, và hứa sẽ từ bỏ thói hống hách nghênh ngang.

5. Vịnh trâu già

Năm 1902, vua Thành Thái ra Hà Nội khánh thành cầu Doumer (sau đổi thành cầu Long Biên ). Các bậc khoa bảng và quan chức các tỉnh phía Bắc đều phải có mặt, Nguyễn Khuyến cũng phải đến bái yết.

Nhìn trên khán đài, có bà hoàng phi của vua, hồi trẻ suýt trở thành con dâu cả của nhà thơ, lại có viên toàn quyền Pháp Paul Doumer. Ông không muốn lạy, giả vờ dềnh dàng sửa áo sửa khăn, loay hoay như 1 con trâu vướng cột, trông rất buồn cười. Nhà vua chờ lâu, khó chịu quở trách, ông lấy cớ mình già nua chậm chạp, chống chế xin lỗi. Sau khi biết đấy chính là Nguyễn Khuyến, danh sĩ số 1 của đất Bắc, Vua cũng nể vì , và bắt ông làm bài thơ tạ tội, lấy đề thơ là "Vịnh trâu già ".

Sau 1 lúc suy nghĩ, ông xin đọc :

Mt nm xương khô, mt nm da
Bao nhiêu cái ách đã t
ng qua
Đuôi khom bi
ếng vy Đin Đan ha
Tai n
ng bun nghe Nnh T ca
S
m th vườn Đào chơi đng đnh
T
i v thôn Hnh th nghi nga
Có ng
ười toan giết tô chuông mi
Ơn đc Vua T li được tha .

 
Bài thơ thật hợp với đề tài và sâu sắc, mượn trâu để nói lên tâm trạng của mình : Tôi gầy ốm vì qua nhiều tai ách, chán chường truyện mưu kế của tướng Điền Đan đốt đuối trâu tấn công kẻ thù, tai cũng chả buồn nghe những lời ton hót của kẻ nịnh bợ (có chăng là buồn vì nghe tiếng ca của hiền tài Ninh Thích không được trọng dụng); Tôi như trâu có công thời Vũ Vương đánh Trụ, được ăn nơi vườn Đào, ngủ ở thôn Hạnh đấy; người ta tính đem tôi đi "tế chuông ", nhà vua có tha cho tôi như vua Tề năm xưa không ?

Vua lắng nghe và nghĩ ngợi, quả thật là hay nhất là câu cuối "Ơn đức vua tề lại được tha ", nhà vua tha cho ông tội bất kính và còn thưởng cho 1 tấm lụa.

PHỤ LỤC II : NHỮNG BÀI THƠ HAY

Thu điếu

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻ teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Bạn đến chơi nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta .


Tự Trào

Cũng chẳng giầu mà cũng chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng
Cờ đương giở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng
Mở miệng nói ra gàn bát sách
Mềm môi chén mãi tít cung thang
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Ngày xuân dạy bảo các con
Năm mới vừa sang, năm cũ qua
Tuy nghèo, ta vẫn mến nhà ta
Chín sào tư thổ là nơi ở
Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà
Trước cửa khói dầy, non khuất bóng
Bên tường mưa ít, cúc thưa hoa
Các con nối chí cha nên biết
Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà
Đêm xuân thương con thiêu thân


Đáng khen thay cho mày chỉ là giống vật có đôi cánh bé nhỏ mong manh,
Thế mà mày biết tìm đến nơi sáng để chết, và chết ở nơi sáng mày mới yên tâm.
Nếu gặp lúc vội vàng gấp rút mà liều chết thì còn dễ, Nhưng mày vừa ung dung bay lượn, vừa suy nghĩ, rồi mới chết, thì cái chết đó thật là khó.

(Giống vật ấy sở dĩ không chịu chết ở nơi tối tăm là vì) nó vẫn giữ được lương năng chất chứa ở trong lòng, mà không nghĩ đến danh lợi trước mắt. Ngọn đèn lẻ loi tuy giết chết mày, nhưng vẫn thương mày, Cho nên khi xác mày đã thành than, mà nước mắt nó vẫn chưa khô.


Giống lông cánh phận mình nho nhỏ
Chết là yên , chết chỗ quang minh
Phải chăng thảng thốt đã đành
Mà trong dúng dắng xem tình dễ đâu
Chữ trí năng trước sau giữ vẹn
Thời buổi này chẳng bén lợi danh
Đèn chong chừng cũng thương mình
Thân tàn ra bụi, lệ tình chưa khô .

(Bản dịch của Hoàng Tạo )



Nguyễn thị Thùy

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.