"Cái kiểu gì mà lại nói rằng bạn không có quyền tồn tại ở đây, rằng bạn phải chứng minh bạn có quyền tồn tại ở đây. Tôi thì nói tôi chẳng có gì phải chứng minh hết. Thế giới này cũng thuộc về tôi."
Trước đây, quan hệ tình dục khác giới là cần thiết vì con người hiện đại cần chứng minh họ là ai và vì sao họ tồn tại, và họ cần phải bảo vệ quyền tồn tại của họ ở nơi mà họ đang tồn tại.
Thời gian trôi đi, cách gắn nhãn đó thực ra đã giới hạn những cách thức vốn có thể giúp con người chúng ta hiểu về những khao khát, tình yêu và nỗi sợ của mình.
Có lẽ đó là lý do khiến một khảo sát ở Anh Quốc gần đây cho kết quả là có chưa tới một nửa số người từ 18-24 tuổi xác định bản thân họ là "100% dị tính".
Điều này không đồng nghĩa với việc hơn một nửa còn lại những người tham gia trả lời thường xuyên có hành vi quan hệ tình dục đồng giới hay song giới, mà nó cho thấy giới trẻ ngày nay có vẻ như không quan tâm tới khái niệm "tình dục khác giới" ở mức độ nhiều như các thế hệ trước, những tiền nhân sống trong thế kỷ 20.
Những cuộc tranh luận về xu hướng tình dục có vẻ tập trung vào khái niệm "tự nhiên" được định nghĩa tồi.
Bởi quan hệ tình dục dị giới thường dẫn đến việc sinh sản, cho nên chúng ta trao cho nó một vị trí đạo đức đặc biệt.
Nhưng "tự nhiên" không tiết lộ cho ta biết nghĩa vụ đạo đức của mình - chúng ta chịu trách nhiệm xác định những điều đó, thậm chí ngay cả khi ta không chủ động ý thức làm vậy.
Để chuyển từ việc quan sát tự nhiên ra sao đến việc quy định tự nhiên nên như thế nào, theo nhà triết học David Hume nói, là ta đã phạm phải một ngụy biện logic.
Tại sao phải phán xét một con người về đạo đức và sự tự nhiên của một người nào đó chỉ vì bản năng tự nhiên của họ?
Rất nhiều thứ mà loài người coi trọng như y học hay nghệ thuật, lại cực kỳ phi tự nhiên. Đồng thời, con người lại thù ghét rất nhiều thứ thực ra là vô cùng tự nhiên, như bệnh tật và cái chết.
Nếu chúng ta xem xét một số hiện tượng xảy ra tự nhiên là có đạo đức hay một số khác là vô đạo đức, điều đó có nghĩa là tâm trí ta đang quyết định thứ gì là tự nhiên.
Tự nhiên không tồn tại đâu đó "ngoài kia", độc lập với con người - chúng ta luôn luôn diễn giải mọi thứ từ bên trong.
Cho đến thời điểm này trong lịch sử của Trái Đất, loài người đã tiến xa hơn việc giao phối khác giới vì mục đích sinh sản.
Một thế kỷ trước, chúng ta gắn cái ý nghĩa đặc thù này cho việc giao phối, một phần vì ta muốn khuyến khích điều đó. Nhưng thế giới của ta đã khác hơn rất nhiều so với ngày trước.
Công nghệ mới như sàng lọc phôi di truyền (PGD) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đang phát triển.
Năm 2013, có hơn 63.000 em bé được thụ tinh trong ống nghiệm. Trong thực tế, hơn 5 triệu trẻ em đã được sinh ra nhờ công nghệ hỗ trợ sinh sản. Rõ ràng là con số này chỉ chiếm lượng vô cùng khiêm tốn so với các hình thức sinh sản tự nhiên khác, nhưng tất cả tiến bộ công nghệ đều bắt đầu với việc không được nhiều người ủng hộ.
Về mặt xã hội cũng vậy, tình dục khác giới đang dần mất đi "vị thế cao" như nó từng có.
Nếu có thời quan hệ tình dục đồng giới bị coi như những cú phốt gây sốc nhất thời, thì giờ đây chúng ta đã chuyển sự chú ý sang một thế giới khác, với những cuộc ngoại tình khác giới của các chính trị gia và người nổi tiếng, với đầy hình ảnh, tin nhắn, những đoạn băng video và thậm chí còn hơn thế nữa.
Văn hóa đại chúng thời hiện đại tràn ngập hình ảnh của những mối quan hệ khác giới và các cuộc hôn nhân không trọn vẹn.
Xa hơn nữa, trong thời gian từ thập niên 1960 tới thập niên 1980, Katz ghi chép, tỷ lệ ly hôn tăng đến 90%.
Và dẫu cho con số này đã giảm đáng kể trong ba thập niên vừa qua, nhưng nó vẫn chưa phục hồi trở lại tới mức ai đó có thể nói rằng "sự bất ổn trong mối quan hệ" là điều chỉ xảy ra với những người đồng tính, Katz khéo léo ghi chép lại.
Ranh giới giữa tình dục khác giới và tình dục đồng giới không chỉ nhạt nhoà đi, như trong một số ngụ ý từ nghiên cứu của Kinsey, mà đó còn là một phát minh, một truyền thuyết, và là một điều đã lỗi thời.
Người nam và người nữ sẽ tiếp tục có cơ quan sinh dục khác nhau cho đến khi loài người không còn tồn tại nữa. Nhưng "tình dục dị giới" - nếu xét từ khía cạnh nó được định nghĩa như một dấu ấn xã hội, một cách sống, hay một sự định danh - thì có thể sẽ không còn tồn tại đến lúc diệt vong đó.
Brandon Ambrosino
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.