Trong
cuộc họp báo quốc tế đầu tiên sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư tại Đại hội
XI của Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng Một năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng đã
nói rằng ông không muốn ‘tạo dấu ấn’ cho riêng mình trong cương vị mới này.
Tổng
Bí thư Trọng hiện là Trưởng ban Chống Tham nhũng Trung ương.
Nhưng
sau gần ba năm tại chức, xem ra ông đã để lại không ít ‘dấu ấn’ và có nhiều
phát biểu khá ‘ấn tượng’.
Chẳng
hạn, trong lần tiếp xúc cử tri tại Quận Ba Đình, Hà Nội vào đầu tháng 12 này,
khi cử tri bày tỏ bức xúc về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam ông đã nói: ‘Đường Tăng khi xưa
đi lấy kinh sang đất Phật cũng phải hối lộ mới lấy được kinh’.
Ví
dụ thật ‘dí dỏm’ và phát biểu rất ‘ấn tượng’ trên của ông Tổng Bí thư đã được
báo chí trong nước trích dẫn và đặc biệt cư dân mạng bình phẩm rất nhiều trong
những ngày qua.
Câu
nói ấy của ông được bàn luận nhiều vì – dù không nói trực tiếp – ông coi bản
chất của con người là không lương thiện, gian trá, dễ đi bị tha hóa, sẵn sàng
làm điều xấu để đạt được mục đích của mình vì ngay cả ‘Đường Tăng’ (một người
thuộc giới tu hành) ‘tới đất Phật cũng phải hối lộ mới lấy được kinh’.
Bản
chất con người thiện hay ác luôn là một đề tài quan trọng và cũng là một chủ đề
gây nhiều tranh luận – đặc biệt trong triết học, nhân bản học hay giáo dục.
Nhưng
cứ cho rằng con người có tính bản ác, dễ bị tha hóa và ‘tham nhũng là vấn đề
của mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi thời kỳ’ như ông Trọng khẳng định, một câu
hỏi được đặt ra là tại sao tham nhũng ở Việt Nam lại nhiều hơn những nước khác?
Nói
cách khác, phải chăng người Việt có tính bản ác nhiều hơn – hay ít hướng thiện
hơn – người châu Âu, Mỹ hay những nước như Đông Nam Á khác như Singapore nên
mới đi hối lộ và tham nhũng nhiều như vậy?
Không
phải vì bản chất
Các
vụ án lớn xảy ra tại những tập đoàn nhà nước (như vụ Vinashin)
Theo
chỉ số tham nhũng của Tổ chức minh bạch Quốc tế (International Transparency)
năm 2013, Việt Nam bị xếp thứ 116 – sau xa các nước ASEAN khác như Singapore
(5) và Malaysia (53) – trên 175 quốc gia, lãnh thổ được International
Transparency (IT) khảo sát, đánh giá.
Kết
quả của IT cũng cho thấy tình trạng tham nhũng ở Việt Nam trong những năm qua
cũng không giảm mặc dù Đảng Cộng sản đã có những chiến dịch, chủ trương chống
tham nhũng rầm rộ – như việc ‘kiểm điểm, tự phê bình và phê bình’ theo Nghị
quyết Trung ương 4, khóa XI – vì năm 2010 Việt Nam cũng bị IT xếp thứ 116.
Điều
đáng là nếu dựa trên chỉ số của Tổ chức minh bạch Quốc tế, không ai có thể hay
dám khẳng định rằng người Việt dễ bị tha hóa hay tham nhũng hơn người Malaysia
hoặc người thuộc các nước châu Âu, như Đan Mạch và Phần Lan.
Trái
lại, nếu nhìn qua những chỉ số ấy và so sánh với các chỉ số khác – như dân chủ
hay tự do báo chí – chắc ai cũng có thể hiểu được tại sao ở Việt Nam hay Bắc
Hàn có nhiều tham nhũng hơn những quốc gia như Đan Mạch hay Phần Lan.
Có
thể nêu ra một vài ví dụ, chỉ số cụ thể.
Ngoại
trừ Singapore, hầu hết 20 quốc gia, lãnh thổ được International Transparency
đánh giá có ít tham nhũng nhất năm 2013 là những nước được The Economist và
Reporters Without Borders (Tổ chức phóng viên không biên giới) xếp đầu trong
chỉ số dân chủ và chỉ số tự do báo chí của mình năm và 2013.
Cụ
thể hơn, năm nước đứng đầu về chỉ số minh bạch (hay có ít tham nhũng nhất) – là
Đan Mạch, New Zealand, Phần Lan, Thụy Điển và Na Uy – cũng là năm quốc gia được
The Economist xếp đầu về chỉ số dân chủ.
Do
vậy, có thể nói ở đâu có một thể chế chính trị cởi mở, dân chủ, có tự do báo
chí thì ở đó tình trạng tham nhũng ít vì trong một xã hội như thế mọi lời nói
và hành động của một chính trị gia hay một đảng phái chính trị luôn bị người
dân, các phe đối lập và đặc biệt báo chí theo dõi, giám sát, phanh phui.
Và
qua những ví dụ trên, có thể khẳng định rằng tham nhũng nhiều hay ít không phải
là ở bản chất con người mà là ở thể chế chính trị. Một ví dụ cụ thể hơn để
chứng minh điều đó là trường hợp Bắc và Nam Hàn. Ai cũng biết cả hai quốc gia
này đều thuộc bán đảo Triền Tiên, có chung ngôn ngữ và văn hóa, nhưng chỉ khác
nhau về thể chế chính trị.
Một
nước thì có đa đảng, dân chủ, tự do – được Tổ chức Phóng viên không biên giới
xếp thứ 50 về tự do báo chí và The Economist xếp thứ 20 về dân chủ. Bên kia là
một thể chế độc tài, gia đình trị – bị xếp gần cuối bảng (chỉ trên Eritrea ) về tự
do báo chí và xếp cuối bảng về dân chủ.
Vì
sự khác biệt về thể chế đó trong khi Nam Hàn được Tổ chức minh bạch thế giới
xếp thứ 46, Bắc Hàn bị xếp cuối bảng (cùng với Somalia ).
Một
yếu tố khác có tác động lớn đến nham nhũng là pháp luật. Cụ thể, trường hợp của
Singapore
cho thấy nếu một quốc gia có pháp luật nghiêm minh, quốc gia ấy sẽ có ít tham
nhũng. Với vị trí thứ năm (cùng với Na Uy), Singapore – một quốc gia được coi
là có hệ thống pháp luật rất nghiêm minh, hệ thống tư pháp khá độc lập – là
nước Á châu duy nhất được IT xếp vào 10 nước ít tham nhũng nhất năm 2013 dù đảo
quốc này bị Tổ chức phóng viên không biên giới xếp thứ 149 và The Economist xếp
thứ 81.
Vì
thể chế, pháp luật
Vụ
án Vinalines được dư luận trong và ngoài nước quan tâm theo dõi.
Có
thể nói ở Việt Nam tham
nhũng nhiều – hơn những quốc gia khác như Đan Mạch, Phần Lan, Singapore tại – vì nước này thiếu
dân chủ, thiếu tự do báo chí và pháp luật không nghiêm minh. Các chỉ số về dân
chủ, tự do của Việt Nam
đều thua các quốc gia trên. Việt Nam cũng không có một hệ thống luật
pháp nghiêm minh.
Cụ
thể, Việt Nam đều thua xa Singapore về hai chỉ số phụ khác được Tổ chức minh
bạch thế giới xem xét để đánh giá tình trạng tham nhũng của một quốc gia là chỉ
số về độc lập của hệ thống tư pháp (judicial independence) và chỉ số về thượng
tôn pháp luật (rule of law).
Chẳng
hạn, về thượng tôn pháp luật, với 1.69 điểm (chỉ số này được đo từ -2.5 đến
2.5), năm 2010, Singapore có tỷ lệ thượng tôn pháp luật là 93%, trong khi đó
với số điểm -0.48, tỷ lệ về thượng tôn pháp luật ở Việt Nam chỉ có 39%.
Qua
những chỉ số trên, việc ông Nguyễn Phú Trọng coi bản tính con người là hối lộ,
tham nhũng là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn tham nhũng ở Việt Nam không thuyết
phục chút nào.
Một
lý do khác được ông đưa ra để giải thích tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là ‘do đồng
tiền, chạy theo lợi nhuận, coi thường giá trị con người. Đó là mặt trái của
kinh tế thị trường’. Lý do này xem ra cũng không thuyết phục lắm vì đa số các
nước tham nhũng ít – cũng là những nước phát triển – là những quốc gia áp dụng
nền kinh tế thị trường.
Hơn
nữa, Việt Nam
cũng không phải hoàn toàn theo kinh tế thị trường vì vẫn còn có ‘định hướng xã
hội chủ nghĩa’. Và trong một chừng mực nào đó sự kết hợp (hơi khập khiểng) này
là một trong những lý do dẫn đến nạn tham nhũng vì trong một nền kinh tế như
vậy các doanh nghiệp nhà nước được nắm vai trò chủ đạo và hiện tại những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ lớn, tham nhũng nhiều lại là những tổng công ty hay doanh
nghiệp nhà nước.
Hai
vụ tham nhũng lớn – được coi là trong những ‘đại án’ đã và đang bị xét xử trong
những ngày này liên quan đến một công ty con của Ngân Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam (Agribank) và Vinaline – là những ví dụ điển hình.
Trong
phát biểu của mình tại buổi tiếp xúc với cử tri đó Giáo sư Nguyễn Phú Trọng
cũng khuyên rằng vì ‘Đường Tăng khi xưa đi lấy
kinh sang đất Phật cũng phải hối lộ mới lấy được kinh’ nên ‘phải xem xét bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt. Phải có
cái nhìn khoa học, biện chứng về tham nhũng’.
Không
biết ‘cái nhìn khoa học, biện chứng về tham nhũng’ của ông Trọng là gì. Nhưng
những chỉ số, ví dụ cụ thể trên chứng minh rằng nếu một quốc gia thực sự dân
chủ, có tự do báo chí và hệ thống luật pháp nghiêm minh – hay có một hoặc hai
trong ba yếu tố này – nước ấy chắc chắn sẽ có ít tham nhũng.
Chẳng hạn, nếu để cho báo chí được tự do phát giác, phanh phui các vụ tham nhũng – từ nhỏ đến lớn – chắc chắn tình trạng tham nhũng của Việt Nam không nhiều như vậy. Thời gian gần đây, chính quyền Việt Nam cho đưa ra xét xử những vụ tham nhũng lớn với những bản án rất nặng, như chung thân hay tử hình đối với một số lãnh đạo ngân hàng Agribank và Vinalines.
Cho tiến hành xét xử những vụ tham ô – còn được gọi là những ‘đại án’ – đó và nghiêm minh trừng phạt những kẻ tham nhũng là một việc nên làm để giới hạn tệ nạn tham nhũng.
Nhưng
một câu hỏi khác được đặt ra là còn bao nhiều người trong những tổng công ty,
doanh nghiệp nhà nước khác – hay quan chức lớn nhỏ của Việt Nam – tham
nhũng mà chưa được phanh phui, xét xử, trừng phạt?
Hơn
nữa, những vụ ‘đại án’ ấy chắc chắn được ngăn ngừa hay bị giới hạn – tránh gây
thiệt hại lớn về tài sản cho Nhà nước, cho nhân dân và một số cá nhân không
phải mất sinh mạng – nếu có một xã hội thực sự dân chủ, cởi mở và báo chí được
tự do điều tra tham nhũng hay pháp luật nghiêm minh.
TS Đoàn Xuân Lộc
Nhân
lời phát biểu của Giáo sư Nguyễn Phú Trọng
Lời
dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Gần đây, trong một dịp tiếp xúc cử tri, Giáo
sư Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng có nói “Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải
hối lộ. Bước chân sang nước Phật đã phải hối lộ...". Câu nói ấy khiến cư
dân mạng bàn tán nhiều lắm! Nhưng Phật tử Phúc Thịnh đã cống hiến một bài viết
rất hay về vấn đề này theo kiến giải của người hiểu Đạo Phật, hiểu văn học cổ
Trung Hoa.
Xem xong bài viết, ai cũng phải giật mình khi nhớ lại rằng, ông
Nguyễn Phú Trọng vốn là sinh viên Tổng hợp Văn (khóa 8). Sinh viên Khoa Văn
trường Tổng hợp Hà Nội đều được học về văn học Trung Quốc, trong đó có Tây Du
Ký. Vậy mà, trong một phút hưng phấn giữa chốn đông người, ví dụ mà ông đưa ra
vừa khập khiễng, vừa tỏ ra là ông chẳng hiểu gì về văn học và về Phật giáo!
Có người nói rằng: “Đến Đường Tăng đi lấy kinh
cũng phải hối lộ. Bước chân sang nước Phật đã phải hối lộ..." là có ý nói việc hối
lộ không những là bản tính của tất thảy con người phàm tục, mà ngay cả những
con người ở thế giới thanh tịnh được coi là đã diệt trừ được Tham, Sân, Si,
Mạn, Nghi và Ác kiến cũng vẫn có chuyện tham nhũng và hối lộ. Nói như thế là để
ngụ ý: việc chống tham nhũng là việc khó cô cùng, và không chống được tham
nhũng cũng là điều hết sức hiển nhiên.
Vâng,
việc chống tham nhũng đương nhiên là khó. Nói là khó, nhưng nếu thực tâm thì
vẫn có cách tốt hơn rất nhiều để hạn chế việc này. Ở đây, tôi không bàn đến
việc chống tham nhũng được hay không, cũng không bàn đến việc hạn chế tham
nhũng bằng cơ chế ưu việt nào, mà chỉ bàn đến một khía cạnh mà người ta hay
hiểu nhầm về đoạn kết của câu chuyện Tây Du Ký.
Lòng
người luôn tham dường như là đúng. Chúng ta luôn muốn có nhiều, nhiều hơn nữa
những giá trị về mọi mặt. Những giá trị ấy nhìn dưới góc độ Phật giáo thì chỉ
là phù du, bóng nước. Phật chỉ thừa nhận có 2 giá trị thực sự mà thôi, đó là
sức khỏe và trí tuệ. Ngoài 2 giá trị Sức khỏe và Trí tuệ ra, các giá trị còn
lại khác chỉ làm cho con người luẩn quẩn lâu hơn mà không thể liễu thoát sanh
tử, không thể Đáo Bỉ Ngạn, hay không thể đạt đến cảnh giới Niết bàn và thành
Phật được. Nhà Phật thường nói: muốn đến Niết Bàn, chứng đắc thành Phật thì con
người phải biết từ bỏ Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến. Vậy, làm thế nào để
từ bỏ những điều trên? Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến từ đâu mà ra? Vâng,
nếu biết những điều trên từ đâu mà ra thì giải trừ nó mới dễ dàng, giống như
người chuyên gia chăm sóc sức khỏe, nếu biết rõ nguyên nhân vì sao bạn bị bệnh,
thì mới mong cải thiện được nó.
Nhà Phật xác định rõ nguyên nhân của Tham, Sân,
Si, Mạn, Nghi và Ác Kiến là do thái độ Tư Tình và Tư Sản tạo ra. Vâng, đúng
vậy. Nếu chúng ta không đau đáu về tình cảm riêng (nghĩa rộng) và tài sản riêng
thì Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến sao dễ dàng nổi nên cho được. Vậy,
trong truyện Tây Du Ký thì cái bát vàng chính là vật đại điện cho cả Tư Tình và
Tư Sản của Đường Tăng. Mặc dù trong đời sống xuất gia, bình bát vốn là biểu
tượng của nhà tu khất thực (khất sĩ trì bát). Nhưng ở đây, chiếc bình bát của
Đường Tam Tạng nguyên là của vua Đường tặng cho ngự đệ (em vua) kết nghĩa – đó
chính là Tư tình. Bình bát ấy bằng vàng – một thứ kim loại quý hiếm – đó chính
là Tư sản. Vì vậy, bình bát của Đường Tăng trong tình huống này tượng trưng cho
của cải, tình riêng và danh vọng ở thế gian. Để nhận kinh báu của Phật, thì
buộc phải dâng nạp bình bát là ngụ ý: muốn thọ lãnh đạo giải thoát của Phật,
con người phải xuất gia, phải lìa bỏ danh vọng và của cải thế tục.
Ngày
xưa, khi Thái tử Cồ đàm tìm đạo giải thoát, Ngài đã phải đánh đổi cả ngai vàng,
vợ đẹp, con thơ, cả cuộc sống nhung lụa đế vương. Ngay ở Việt Nam ta cũng vậy,
thì khi vua Trần Nhân Tông đi tìm đạo giải thoát cũng phải bỏ lại tất cả, ngai
vàng, quyền lực, tam cung, lục viện.v.v…lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng
(hay Trúc Lâm đầu đà) và tu hành, thì mới được người đời sau cung kính gọi là
“Phật Hoàng”.
Tóm
lại, việc buộc Đường Tăng phải trao bát vàng trước khi nhận kinh Phật là phương
pháp áp dụng trực tiếp trong hoàn cảnh cụ thể của Đường Tăng, để diệt trừ Tư
tình, diệt trừ Tư sản, loại bỏ mọi của cải và danh vọng của thế tục, diệt cái
cội nguồn của tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến, chứ không phải là vấn đề
tham lam, hay hối lộ gì ở nơi nước Phật.
Vài
lời ngắn ngủi xin được chia sẻ với những ai còn hiểu nhầm, hay cố tình hiểu
nhầm để làm gì đó. Xin cảm ơn.
Nam
Mô A Di Đà Phật!
Phật tử Phúc Thịnh
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.