Với chuyến thăm Việt
Nam vào tuần tới, ông Barack Obama là tổng thống thứ năm của Mỹ đến Việt Nam.
Trước ông, bốn tổng thống khác đã từng tới nước này.
Sang vào những thời
điểm, hoàn cảnh khác nhau, những chuyến đi đó cũng có những mục đích, tác động
khác nhau.
Lyndon B. Johnson
Ông Johnson đến (miền
Nam) Việt Nam lần đầu tiên ngày 12/05/1961, lúc ông còn là Phó Tổng thống. Ông
đã gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm và coi ông Diệm như là một Winston Churchill của
châu Á lúc ấy.
Ông hứa Mỹ sẽ có
thêm hỗ trợ quân sự để giúp chính quyền ông Diệm chống cộng. Về lại Mỹ, ông nhắc
lại thuyết domino và cho rằng nếu không giữ được miền Nam Việt Nam có thể Mỹ phải
chiến đấu với những người cộng sản ngay tại cửa ngõ của mình.
Cũng vì quá lo sợ sự
bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, sau khi lên làm tổng thống, ông đã cho đưa
nhiều quân vào miền Nam.
Trong cuốn ‘Vietnam:
A History’, Stanley Karnow cho rằng trong cuộc gặp với ông Johnson, ông Diệm đã
không mặn mà với ý tưởng đưa lính Mỹ vào miền Nam vì là người nặng chủ nghĩa dân
tộc, ông không muốn sự hiện diện quá đông của quân Mỹ trên đất nước mình.
Sau khi Tổng thống
John F. Kennedy bị ám sát ngày 22/11/1963, ông Johnson lên làm tổng thống. Trước
đó ba tuần, Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng bị giết hại. Sau vụ ám sát này, tình
hình ở miền Nam càng trở nên phức tạp, tồi tệ, cuộc chiến càng trở nên khốc liệt.
Số lượng lính Mỹ ở Việt Nam cũng tăng nhanh.
Vào ngày 25/10/1966,
ông Johnson đã bất ngờ tới căn cứ quân sự Cam Ranh chỉ trong vòng hai tiếng rưỡi
để thăm hỏi, cảm ơn và động viên lính Mỹ.
Ông đến Việt Nam từ
Manila, nơi ông có hội nghị với lãnh đạo nước đồng minh (Úc, Phililippines,
Thái Lan, New Zealand, Hàn Quốc và Nam Việt Nam). Tại đó Mỹ và những nước này hứa
sẽ rút quân khỏi miền Nam trong sáu tháng nếu Bắc Việt cũng hoàn toàn rút lực
lượng của mình khỏi Miền Nam.
Ông Johnson sang Việt
Nam lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng trên cương vị tổng thống khi ông tới
Cam Ranh ngày 23/12/1967.
Khi ông Johnson lên
làm tổng thống năm 1963, số lính Mỹ ở Việt Nam chỉ có 16 ngàn.
Nhưng bốn năm
sau con số ấy đã lên hơn 500 ngàn. Tuy vậy, vào giữa mùa thu năm 1967, ông đã
biết cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam rất khó thành công. Và chuyến đi này cũng
không làm ông thay đổi suy nghĩ đó.
Sau sự kiện Tết Mậu
Thân năm 1968, phong trào phản chiến ở Mỹ lan rộng, uy tín của ông Johnson sụt
giảm.
Dù ông vẫn được quyền
tái cử, ông Johnson đã quyết định không tranh cử chức tổng thống năm 1968.
Ứng viên Dân chủ
tranh chức tổng thống năm đó là Phó Tổng thống Hubert Humphrey, Phó Tổng thống
dưới thời ông Johnson. Nhưng Humphrey đã thất cử trước ứng viên Cộng hòa
Richard Nixon.
Richard Nixon
Ông Richard Nixon là
người có khá nhiều quan hệ với (cuộc chiến) Việt Nam.
Tổng thống Richard
Nixon, ngày 30/4/1970, loan báo quân Mỹ sẽ vào Campuchia
Theo một số tài liệu
ông Nixon đã đến Việt Nam bảy lần trước khi lên làm tổng thống. Một trong những
lần đó là vào tháng 10 năm 1953, khi ông sang thăm ba nước Đông Dương và ghé
Sài Gòn và Hà Nội. Đây cũng là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của ông với tư cách
là Phó Tổng thống.
Ông cũng sang Sài
Gòn vào tháng Bảy năm 1956 và gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm. Theo David F.
Schmitz, tác giả của cuốn ‘Richard Nixon and the Vietnam War: The End of the
American Century’, trong chuyến đi ấy, ông Nixon cho rằng việc thành lập một
nhà nước cộng hòa, phi cộng sản ở miền Nam đã giúp ngăn chặn sự bành trướng của
chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á.
Lần đầu tiên và cũng
là duy nhất ông Nixon sang miền Nam trên cương vị tổng thống là vào tháng Bảy
năm 1969 khi ông công du tới một số nước, lãnh thổ châu Á, trong đó có đảo
Guam.
Trong chuyến thăm
kéo dài chỉ 5 giờ rưỡi không được sắp đặt trước vào ngày 30/07, ông đã gặp Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu để bàn việc rút thêm lính Mỹ khỏi miền Nam. Ông cũng gặp
các chỉ huy quân sự của Mỹ để trao đổi những thay đổi về chiến thuật của Mỹ.
Trước đó, vào ngày
25/07, khi thăm đảo Guam, ông đã công bố Học thuyết Nixon (hay còn được gọi Học
thuyết Guam). Điểm chính yếu của học thuyết này là Mỹ chỉ giúp bảo vệ và phát
triển các nước đồng minh. Nhưng các quốc gia này phải có trách nhiệm tự quyết định,
bảo đảm an ninh của mình.
‘Việt Nam hóa’ chiến
tranh – theo đó lính Mỹ sẽ dần dần rút khỏi miền Nam và được thay thế bằng quân
đội miền Nam – cũng xuất phát từ học thuyết này.
Theo Stephen E.
Ambrose, tác giả cuốn ‘Nixon: The triumph of a politician, 1962-1972’, xuất bản
năm 1989, tuy Mỹ chịu nhiều thương vong, trong chuyến đi này ông vẫn cho rằng
cuộc chiến là chính đáng vì nó giúp ‘người dân miền Nam tự quyết định con đường
của mình’ và cũng ‘giới hạn nguy cơ có thêm nhiều cuộc chiến trong tương lai’.
Nhưng biết sẽ khó thắng
và một phần vì muốn tìm một lối thoát cho cuộc chiến đẫm máu, ông Richard Nixon
và Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của ông, đã ký Hiệp định Paris năm
1973.
Hiện giờ vẫn còn có
nhiều tranh cải về ý nghĩa, tác động – hay ai được ai thua – từ Hiệp định này.
Nhưng khá nhiều người cho rằng Hiệp định này đã góp phần dẫn đến sự kiện 30
tháng 4 năm 1975. Sau 1975, dù Washington và Hà Nội có những động thái muốn nối
lại quan hệ.
Nhưng vì nhiều lý do
khác nhau, những cố gắng đó không thành. Việt Nam bị Mỹ cấm vận thương mại và
mãi tới năm 1994, khi Tổng thống Bill Clinton quyết định bỏ lệnh cấm vận, quan
hệ Việt-Mỹ mới từ từ được nối lại.
Bill Clinton
Tổng thống Mỹ Bill
Clinton bắt tay với người dân tại Hà Nội ngày 17/11/2000
Một năm sau đó,
chính Tổng thống Clinton cũng là người quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam. Và năm 2000, ông Clinton đã sang thăm Việt Nam (từ 16-19/11). Đây
cũng là lần đầu tiên một tổng thống Mỹ tới Việt Nam kể từ năm 1969.
Chuyến đi lịch sử
này vừa giúp hai cựu thù hàn gắn những vết thương, nghi ngờ chiến tranh để lại.
Nó vừa giúp hai bên phát triển, đẩy mạnh quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực.
Chẳng hạn, theo số
liệu Tổng cục thống kê Việt Nam, năm 1995, thương mại giữa hai nước chỉ 200 triệu
USD. Năm 2015, con số ấy lên tới 43.5 tỷ USD.
Quan hệ Việt-Mỹ chắc
chắn sẽ không phát triển, gần gũi, thân thiện như hôm nay nếu như ông Clinton
không dám mạnh dạn bỏ lệnh cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam
hơn 20 năm trước.
Phát biểu dịp kỷ niệm
20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Mỹ-Việt tại Hà Nội, ông đã nói việc thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt Nam là một trong những thành công quan trọng nhất
trong hai nhiệm kỳ tổng thống của ông.
Sau chuyến thăm lịch
sử năm 2000, cựu Tổng thống Clinton cũng đã nhiều lần sang Việt Nam.
George W. Bush
Tổng thống Bush tại
TP. HCM ngày 20/11/2006
Tổng thống Bush thăm
Việt Nam từ ngày 17-20/11/2006. So với chuyến thăm của ông Clinton năm 2000,
chuyến đi này ít quan trọng, ý nghĩa hơn. Ông Bush đến Việt Nam năm đó cũng để
tham dự Hội nghị thượng đỉnh APEC.
Ông không được nhiều
người dân đón tiếp hay có cảm tình như khi ông Clinton đến đây.
Nhưng ông Bush cũng
rất ngạc nhiên, vui mừng về sự cởi mở, thân thiện, trẻ trung, năng động mà ông
chứng kiến trong những ngày ở Việt Nam.
Trả lời báo chí, ông
cho biết một điều làm ông ‘thấy thật thú vị là khi biết các con của Thủ tướng
Việt Nam được học ở Mỹ. Thủ tướng Việt Nam, như tôi hiểu, thì ngày xưa thuộc
lực lượng Việt Cộng, nay gửi các con ông sang nước chúng tôi học tập, và một
trong các cháu đã kết hôn với một người Mỹ gốc Việt’.
Có thể so với Tổng
thống Clinton, ông Bush không có tác động nhiều lên quan hệ Mỹ-Việt. Nhưng ông
cũng đóng một vài trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới năm đó.
Barack Obama
Chuyến thăm Việt Nam
sắp tới (22-25/05) của Tổng thống Barack Obama có thể là chuyến thăm được bàn
và chờ đợi nhiều nhất.
Dưới thời ông, quan
hệ Mỹ-Việt đã được cải thiện trên tất cả mọi lĩnh vực – từ chính trị, quốc
phòng đến kinh tế, giáo dục.
Ông cũng chính là
người khởi xướng chính sách xoay trục sang châu Á của Mỹ. Trong hơn bảy năm
qua, ông Obama đã đến thăm hầu hết các nước trong vùng – trong đó có nhiều nước
đến hai lần, như Indonesia (2010, 2011), Myanmar (2012, 2014), Malaysia (2014,
2015) và Philippines (2014, 2015).
Nhưng đến giờ ông mới
sang thăm Việt Nam. Chuyện ông chậm thăm Việt Nam ít hay nhiều cho thấy giữa
Washington và Hà Nội vẫn còn có những bất đồng. Một trong những bất đồng ấy là
hồ sơ nhân quyền của Việt Nam.
Cũng vì điều này vẫn
chưa rõ trong chuyến thăm này ông Obama có quyết định bỏ lệnh cấm vận vũ khí
sát thương đối với Việt Nam hay không.
Nếu muốn quan hệ Mỹ-Việt
hoàn toàn bình thường hóa và Việt Nam phát triển, giàu mạnh, dân chủ – đặc biệt
trong bối cảnh Trung Cộng càng hung hăng ở Biển Đông – chắc ai cũng hy vọng,
trông mong Washington và Hà Nội tìm được đồng thuận về hai vấn đề này.
TS. Đoàn Xuân Lộc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.