Trong các cuộc tiến đánh chiếm lĩnh mục tiêu, bất cứ cấp chỉ huy nào từ đơn vị nhỏ đến đại đơn vị đều phải điều nghiên địa hình, nắm biết rõ sự tương quan lực lượng giữa ta và địch nên khi đánh địch, giành phần thắng chắc chắn và dễ dàng hơn. Vì vậy, trong Tôn Tử Binh Pháp đã có khái niệm chíến lược, chiến thuật như là khuôn vàng thước ngọc mà các nhà quân sự nào cũng phải quan tâm, chiêm nghiệm, đại ý: Biết người biết ta, trăm trận đánh trăm trận thắng. Biết người không biết ta (hay ngược lại) với kết quả một thắng một bại. Còn không biết người và cũng không biết ta, như kẻ mù khi điều quân, không hiểu rõ khả năng của mình và khả năng của đối phương, chắc chắn trăm trận đánh trăm trận thua.
BỐN CUỘC TRIỆT THOÁI LỊCH SỬ KHI MIỀN
Từ đầu tháng 3 năm 1975, khi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không được Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận viện trợ 300 triệu Mỹ kim và cũng từ ngày giờ đó, miền Nam Việt Nam đang đi vào cảnh hấp hối, không còn cơ may xoay đổi được tình thế, cuộc chiến đang hồi ngặt nghèo, bi thảm về phía VNCH.
Cuộc tấn công của CSBV đánh chiếm Ban Mê Thuột vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, mở màn cho sự sụp đổ hoàn toàn cả Quân Khu II do Thiếu Tướng Phạm Văn Phú làm Tư Lệnh.
Trong vòng 45 ngày từ ngày 16 tháng 3 đến ngày 29 tháng 4 năm 1975 với 4 cuộc triệt thoái, rút quân lịch sử đầy bi thương đã đưa đẩy miền Nam Việt Nam vào con đường bại vong về tay cộng sản Bắc Việt (CSBV), đánh dấu bằng ngày 30.4.1975.
1- Cuộc Triệt Thoái Thứ Nhất: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Hai ngày sau cuộc họp tại Cam Ranh, ngày 16.3.1975, cuộc rút quân bắt đầu và chọn đường liên tỉnh lộ số 7 nhỏ hẹp, nối Pleiku và Phú Yên, thay vì dùng quốc lộ 19 nối liền Pleiku với Qui Nhơn vì đã bị CSBV chiếm đóng nhiều nơi nên không thể sử dụng ngay được. Cuộc triệt thoái này đã bị thất bại ngay từ đầu vì lệnh của cấp trên và ngay cấp thừa hành cũng vấp phải sự yếu kém, không ước tính được tình hình diễn tiến cuộc rút quân quy mô nhất từ trước đến lúc bấy giờ của nền đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Kế hoạch triệt thoái của Tướng Phạm Văn Phú đã tan vỡ từ khi bị quân CSBV chận đánh ở đèo Tuna, phía đông Phú Bổn.
Sinh vi tướng, tử vi thần, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã can đảm chọn cái chết hào hùng, tuẫn tiết tại Sài Gòn khi đoàn quân xâm lược của CSBV tiến chiếm Thủ Đô VNCH ngày 30.4.1975
2- Cuộc Triệt Thoái Thứ Hai: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
Ngày 19.3.1975, QLVNCH rút khỏi Quảng Trị, về lập phòng tuyến ở Mỹ Chánh, giữa Huế và Quảng Trị. Tướng Trưởng vào Sài Gòn gặp Tổng Thống Thiệu trình bày kế hoạch giữ ba “đầu cầu” (enclaves) Huế, Đà Nẵng và Chu Lai, Tổng Thống Thiệu chấp thuận (Trích trong bài Trách Nhiệm Làm Mất Miền Nam của Lữ Giang, sách dẫn thượng). Nhưng, tối 20.3.1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại ra lệnh rút thêm Lữ Đoàn 2 Dù về Sài Gòn. Như vậy, QK1 chỉ còn Sư Đoàn TQLC đang tăng cường, Tướng Trưởng bối rối trước sự việc quân CSBV càng ngày gây áp lực nặng nề và 4 SĐ trừ bị CSBV đang sẵn sàng vượt sông Bến Hải kết hợp với các đơn vị của CSBV đã có sẵn ở QK I, tiến chiếm toàn bộ QK I. Ngày 21.3.1975, CSBV đã cắt đứt QL1 ở Truồi, giữa Huế và Đà Nẵng và đóng chốt ở đèo Phú Gia. Đường bộ giữa Huế và Đà Nẵng đã bị quân CS cắt đứt.
Ngày 27.3.1975, tình hình Đà Nẵng vô cùng nghiêm trọng, CSBV pháo kích liên tục gây bất ổn làm cho nhân tâm thêm xao xuyến. Hơn nữa, dân chủng từ Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quãng Tín… đổ về đây quá đông. Khi tình hình Đà Nẵng không còn kiểm soát được, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Ngày 28.3.1975, tàu Hải Quân đến Đà Nẵng đón binh sĩ và dân chúng, ưu tiên cho TQLC, đưa vào Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu…
Ngày 29.3.1975, Quân Khu I hoàn toàn thất thủ.
Sư triệt thoái nhiều lúc không kiểm soát được, không thành công và Tướng Trưởng khi về tới Saìgòn bị khiển trách, làm kiểm điểm… Mặc dù vậy, các nhà quân sự ngoại quốc, đặc biệt là nhiều tướng lãnh Hoa Kỳ thông cảm và chấp nhận sự việc triệt thoái toàn bộ lực lượng của QK I dù có nhiều cảnh hỗn loạn trên đường rút quân. Nhưng, họ luôn chiêm ngưỡng và kính trọng Tướng Quân Ngô Quang Trưởng, uy danh của ông vẫn sừng sững oai hùng trên trang quân sử VNCH và chiếm trọn sự kính mến của nhiều người và đặc biệt của các chiến sĩ gần gũi và trực tiếp dưới quyền ông.
Ngày 22.1.2007, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã “giã từ vũ khí” tại Tiểu Bang Virginia, ông ra đi để lại bao sự tiếc thương cho nhiều người.
Từ năm 1968, trong trận tổng công kích và nổi dậy của VC vào dịp Tết Mậu Thân và cuộc chiến đẫm máu nhất trong quân sử QLVNCH mùa hè lửa đỏ 1972, Tướng Quân (từ của nhà văn Phan Nhật Nam) Ngô Quang Trưởng đã chứng tỏ khả năng điều binh của nhà quân sự nổi danh nhất của QLVNCH mà Đại Tướng Creighton Abrams, Tư Lệnh các lưc lượng Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, khẳng định khả năng cầm quân của Tướng Trưởng sẽ chỉ huy được cả sư đoàn chính quy của Quân Lực Hoa Kỳ.
Trong hàng mấy mươi vị tướng lãnh chỉ huy các đại đơn vị trong QLVNCH, chỉ có Tướng Quân Ngô Quang Trưởng là vị tướng được nhiều tướng lãnh Hoa Kỳ không tiếc lời khen ngợi và kính trọng
3- Cuộc Triệt Thoái Thứ Ba: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
Một con mãnh hổ SĐ 18 BB không thể đương cự được vơí một tập đoàn hồ ly vây quanh. Vì vậy, dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo đã mở một cuợc triệt thoái thành công thoát hiểm trước nanh vuốt của hàng chục SĐ quân CSBV định nuốt trửng đơn vị tinh nhuệ này.
Người chỉ huy cuộc lui binh cùng đi bộ với các đơn vị của ông dù an toàn về tới Sài Gòn, nhưng, sau đó, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã phải trả một cái giá đắt trong lao tù cộng sản, ông đã gở đến hết lịch, đến cuốn thứ 17 và nay được định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO. tại Tiểu Bang Connecticut.
4- Cuộc Triệt Thoái Thứ Tư: Đô Đốc Chung Tấn Cang
Trong bối cảnh, các đơn vị lớn nhỏ QLVNCH đang hiện diện trong nội thành Sài Gòn và vùng ngoại ô, không nhận được lệnh lạc gì của cấp trên, Bộ Tổng Tham Mưu hay cuả chính phủ mới. Các đơn vị trưởng còn bám trụ ở đơn vị, không vọt đi ra biển hay đi bằng phi cơ thì tùy nghi quyết định lấy số phận của đơn vị mình, tiếp tục chiến đấu đến viên đạn cuối cùng hay bỏ đơn vị về nhà hay tìm cách vượt thoát ra biển Đông…
Trong khi đó, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân, ông mới về đảm nhận chức vụ này chỉ được một thời gian rất ngắn. Với tầm nhìn của vị tướng lãnh sáng suốt, sau khi 2 Quân Khu II & I thất thủ, Đô Đốc đã tự hoạch định một phương cách bảo toàn lực lượng để có thế ứng phó với cơn dầu sôi lửa bỏng đang ầm ập lao tới. Với tư cách là Tư Lệnh Hải Quân mới, ông thường xuyên mở những cuộc họp tham mưu và những cuộc họp lớn có tất cả các đơn vị trưởng các Hạm Đội, Vùng Duyên Hải, Vùng Sông Ngòi… đang có mặt tại 4 Quân Khu để Đô Đốc nắm chắc những gì Hải Quân sẽ sử dụng hiệu quả khi có biến cố, cần tới.
Qua bài viết của Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang được phổ biến trên các diễn đàn sau khi Đô Đốc Chung Tấn Cang qua đời ngày 24 tháng 1 năm 2007 tại Thành Phố Bakersfield - California, hưởng thọ 82 tuổi, chúng ta đọc không khỏi ngậm ngùi thương cảm cho một vị Tướng Hải Quân kỳ tài vì có quá ít thời gian phục vụ ngành chuyên môn của mình. Đô Đốc Chung Tấn Cang dù phục vụ trong Hải Quân, thời gian chỉ có 5% cuộc đời binh nghiệp của ông, như Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang viết, nhưng, Tướng Cang biểu tỏ thiên tài của ông về sự chỉ huy, điều động các đơn vị Hải Quân dưới quyền. Tướng Quân Cang tâm sự với người viết bài này, cách đây 6 năm khi đến thăm ông vì tình thầy trò trong Quân Đội, ông nói rằng rất tiếc, BTL Hải Quân đặt tại một địa điểm nhỏ hẹp tại Thủ Đô Sài Gòn, cách biển khá xa mà Hải Quân là quân chủng cần vẫy vùng hoạt động hữu hiệu ở vùng sông nước, biển cả. Lúc bấy giờ, tôi có ý nghĩ, cấp lãnh đạo quốc gia chưa có tầm nhìn đúng về khả năng tinh nhuệ của quân chủng Hải Quân, họ phải hoạt động ở trên mặt nước, khi đưa Hải Quân lên bờ là chặt tay chặt chân họ. Đô Đốc Cang có ý ám chỉ về số phận của ông, là một Phó Đô Đốc (tướng lãnh 3 sao), cấp bậc cao nhất trong Quân Chủng Hải Quân lại phải xa rời màu nước xanh biên biếc của biển cả, ông không được phục vu hay chỉ huy ngành chuyên môn của mình một thời gian quá dài.
Kết Luận:
Qua 4 cuộc triệt thoái, lui binh, cuộc rút quân của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo có tầm vóc nhỏ hơn 3 cuộc triệt thoái khác ở cấp Quân Đoàn và Quân Đoàn cộng mà cuộc triệt thoái do Đô Đốc Chung Tấn Cang điều động chỉ huy là cuộc triệt thoái thành công và tuyệt vời nhất.
Về danh tiếng, Tướng Quân Ngô Quang Trưởng là người chỉ huy tài giỏi và thanh liêm, ai cũng nghe danh và khi Tướng Quân Trưởng ra đi có biết bao người thương tiếc và kể cả báo chí Mỹ cũng viết bài, đưa tin, chia buồn và vinh danh ông… Tôi không có may mắn làm việc dưới quyền ông nên không dám có bài viết về Tướng Quân Ngô Quang Trưởng.
Còn Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tướng Quân sống âm thầm tại một nơi đìu hiu, ít người Việt. Cuộc sống của Đô Đốc cũng lặng lẽ như bản tính của ông. Suốt cuộc đời binh nghiệp, ông tỏ ra một cấp huy tài giỏi, thanh liêm, mẫu mực và đến khi ông ra đi cũng lặng lẽ, ít có người viết về ông. May mắn có Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang đã viết một bài có thể gây sự chú ý, tôi chưa dám nói là làm chấn động tâm tư tình cảm của nhiều người vì biết được sự thật về Đô Đốc Chung Tấn Cang.
Anh Phương Trần Văn Ngà
Một
lần nữa tháng tư đen lại về, mời các bạn xem đoạn video clip nói về 1 người
Mỹ sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để giải cứu 105 người bạn đồng nghiệp của
mình thoát khỏi hiểm hoạ CS. Câu chuyện tưởng chỉ xảy ra trong phim ảnh
nhưng lại xảy ra trong thực tế, đoạn video này có phụ đề tiếng Việt, mời
các bạn xem 1 câu chuyện kết thúc có hậu, đầy cảm động và hồi hộp.
https://www.youtube.com/watch?v=wfUj6udXAGU
https://www.youtube.com/embed/Ki86x1WKPmE
F-35
Sea Trials / So cool !!! Quá đã !/ biểu diễn chút xíu cho "Tàu
Khựa" sợ chơi.
https://www.youtube.com/embed/Ki86x1WKPmE
Cuộc chạy trốn Cộng sản kinh hoàng trong lịch sử V... |
Jan 30, 2014
Trận đánh vào các huyền thoại & Huyền thoại: chất dinh dưỡng của độc tài. image. Nếu huyền thoại là chất dinh dưỡng cho các chế độ độc tài thì, để chống lại độc tài và để tranh đấu cho dân chủ, một trong những việc làm ...
Apr 21, 2014
Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. BM: Cuộc chạy trốn Cộng sản kinh hoàng trong lịch sử VN. May 01, 2012. Cả một hạm đội gồm 50 chiến hạm được huy động từ nhiều tháng trước ngày 30-4-1975. image.
Apr 15, 2014
... nghiến lại như phát thành tiếng, nhưng tôi vẫn không chút ân hận trước kia mình đối xử tử tế với cán binh nón Cối từ Bắc vào bị bắt làm tù binh, mặc dầu trong trận đánh họ đã gây cho chúng tôi nhiều tổn thất sinh mạng.
Apr 24, 2013
-Tôi xin giới thiệu với anh em, trung úy An là đại đội trưởng đại đội 45 trinh sát của trung đoàn, đơn vị nắm phần quyết định cho trận đánh này. Trung úy có thể ngồi xuống được rồi. Trí nhìn người trung uý trẻ hơn tuổi mình ...
Feb 18, 2012
Đó là lời của Don McCullin, cây đại thụ trong làng nhiếp ảnh Anh quốc, với hơn 50 kinh nghiệm chụp ảnh các cuộc chiến từ Berlin, Việt Nam, Campuchia, đến Bangladesh và Trung Đông. image. Một góc triển lãm ảnh chiến ...
Apr 19, 2013
Tháng 04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông Lam A) phối hợp với Sư đoàn khác đánh vào căn cứ phòng ngự Xuân Lộc. Trận chiến quyết liệt kéo dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành ...
Apr 13, 2012
Nhà văn ký tên Cô Gái Đồ Long vừa phổ biến bài viết nhan đề “Thà chết chứ hổng chịu hy sinh!” cho biết rằng con đường daì nhất thị trấn Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, từng được đặt tên là Nguyễn Văn Bé để vinh danh “anh ...
Mar 29, 2012
“Mùa Xuân Bất Hạnh”. Sau 37 năm "giải phóng" chỉ có đảng là vinh quang...còn người dân? image. Một lá thư trần tình hay nhất thế giới · image · Bản Tin Tức Cuối Cùng Của Đài Phát Thanh Sàigòn Th... image. Di tản · image · Hình ảnh biến cố tại Sài Gòn ngày 30-4-1975 · image · April 30th 1975 · image .... không thân với Mỹ vì sợ TQ có cớ đánh · The Regrets of a Foreign Bride · Việt Nam tôi đây...Sau 37 năm "giải phóng" · Nam Lộc: Xin đừng mong đợi thái quá!
Mar 30, 2013
Thi hài các chiến binh Xuân Lộc thuộc sư đoàn 18 còn nằm trong nhà xác. image. Ông tướng hỏi tổng số bao nhiêu mộ. Thưa hơn 16 ngàn. Tiếp theo, anh chuẩn úy đã theo đúng nguyên tắc nên chỉ dẫn cho đại tướng làm ...
Quốc Hận 30 Tháng Tư !
ReplyDeleteMiền Nam sông núi kết tinh
Trăm năm hội tụ khí thiêng anh hùng
Trong cơn nguy biến đường cùng
Hồn thiêng dân tộc hiển linh hiện về
Hôm nay chứng giám lời thề
Việt Nam hùng sử não nề bi thương !
Một ngày vận nước tai ương
Một ngày , đất nước vào tay quân thù
Miền Nam trang sử thiên thu
Ngàn đời ghi mãi anh hùng Việt Nam
Các anh theo gió , mây ngàn
Bay theo hồn nước , bao la bầu trời
Các anh ngọc bích sáng ngời !
Giặc kia cục đá nặng nề vô tri
Chúng tin chủ thuyết ngu si
Các anh Dân Tộc khắc ghi trong lòng
Chúng vì cái đảng nạ dòng
Các anh chiến sĩ vì dân quên mình
Hồn thiêng sông núi anh linh
Hôm nay , dân Việt nghiêng mình tiếc thương !
Chinh nhân số kiếp đoạn trường
Hùng ca sử Việt ngàn đời còn ghi
Các anh vĩnh viễn ra đi
Toàn dãn mãi mãi tiếc đời hùng anh
Giặc kia cờ máu hôi tanh
Các anh biểu tượng cờ vàng quê hương
Giặc gây bao cảnh tang thương
Các anh dựng lại , quốc cường dân an
Giặc kia chỉ muốn lan tràn
Các anh ngăn sóng đỏ kia tràn bờ
Giặc kia chủ nghĩa tôn thờ
Các anh chiến đấu màu cờ Việt Nam
Giặc kia , quốc tế đệ tam
Các anh bảo vệ giang san của mình !
Vài năm sau cuối đồng minh
Bàn cờ gian dối , chiến binh cũng đành !
Tướng quân tuẫn tiết theo thành
Việt Nam hùng sử ghi thêm anh hùng !
Ngày nay , tiếc nhớ khôn cùng !
Các anh yên nghỉ , tiếng thơm muôn đời !
Chúng tôi vẫn chỉ một lời :
Còn Loài Cộng Phỉ , Đấu Tranh Đến Cùng !!!
Hoàng Hạc
Ba mươi tháng Tư
ReplyDeleteĐại thắng mùa xuân, đại thắng nào
Thắng rồi đất nước bỗng ra sao
Trai tù ngút chỉ rừng xanh thẳm
Gái ngậm căm hờn dưới biển sâu
Đất nước thụt lùi gần thế kỷ
Tù ra lạc lõng bước ta về
Văn minh tình nghĩa ai thu sạch
Chữ nghỉa thơ văn ở chợ trời
Cướp đất xây nhà cho cán bộ
Hai tay dâng biển kẻ thù xưa
Ông cha đã giữ từng tấc đất
Máu đào không tiếc tiếc quê hương
Mặt ngoài phố thị ôi " hoành tráng" !
Xin hỏi nhà ai vốn ở đâu
Thân gái lạc loài nơi đất khách
Giải phóng cho ai giải phóng gì
Đất nước chìm sâu vào lạc hậu
Sống đời vất vưởng chăng tương lai
Dân trí còn đâu mà phát triển
Tiếp tục chìm sâu giấc mộng dài
Thanh Lam (29-04-14)
Xin Bảo Mai vui lòng chuyễn tiếp đến ang An Phương Trần Văn Ngà. Cám ơn Bảo Mai.
ReplyDeleteThưa quý Anh Trần Văn Ngà,
Tôi đọc được bài viết của anh về Bốn Cuộc Triệt Thoái Lịch Sữ của QLVNCH đăng trôn Blog BaoMai. Tôi rất ngưỡng mộ công trình sưu tầm và nhận định của anh.
Tuy nhiên, vì lý do cá nhân tôi có liên hệ ít nhiều đến Chuyến Hải Hành Cuối Cùng của Hạm Đội HQVNCH nên tôi muốn chuyễn đến anh đôi giòng nhận định nầy, mong giúp được phần nào trong công cuộc anh tìm kiếm dữ kiện cho những gì anh viết và quảng bá.
a- Tôi tin tưởng rằng cấp lảnh đạo của VNCH và của QLVNCH có đầy đũ sáng suốt trong vấn đề bổ nhiệm các vị Đại Đơn vị trưởng. Đặc biệt là việc bổ nhiệm các cấp Tướng lảnh trong QLVNCH. Từ đó, tôi suy luận rằng, sự việc Đô Đốc Cang được thuyên chuyễn đến những đơn vị ngoài Hải Quân phải có lý do riêng của sự việc. Tôi còn nhớ có một cuộc "đảo chánh" trong hàng ngũ HQVN và sau đó thì Đô Đốc Cang thuyên chuyễn ra khỏi Hải Quân. Lý do cuả việc thuyên chuyễn nầy là gì nếu không là vì Đô Đốc cang không phải là cấp chỉ huy thích hợp cho hoàn cảnh và thời điểm đó.
b- Trong suốt thởi gian Đô Đốc Cang "xa rời" HQ/VNCH thì HQ đã tăng trưởng gắp bốn trâm hoặc năm trâm phần trâm. Khi Ông trở lại giử chức vụ Tư Lịnh Hải Quân thì Ông nhận lảnh một Hải Quân hoàn toàn xa lạ̣ với kinh nghiệm chỉ huy HQ của Ông vào thời điểm trước. Ông bị bở ngở lằ điều có thể xảy ra.
c- Bài viết của anh Trần Văn Ngà căn cứ nhiều trên bài viết của anh Nguyễn Bá Trang. Với nội dung của bài viết của anh Trang thì anh Trang đã tôn Đô Đốc Cang lên hàng THÁNH. Sự hư thực của những gì anh Trang viết ra cần được duyệt xét qua dử kiện mà anh Trang tham khảo. Xét lại hoàn cảnh lịch sữ thì anh Trang không có mặt tại SaiGon trong những giờ phút hấp hối nên chắc chắn rằng anh không có đũ dữ kiện mắt thấy tai nghe để viết tâng bốc Đô Đốc Cang đến mức độ đó. Lúc bấy giờ anh Trang đang ở đơn vị tại Miền Tây, xa Saigon. Do đó, anh Trang viết theo những gì anh nghe được sau nầy, mà những gì anh Trang nghe được là những chuyện bi hùng có thêu dệt được bàn ra trong những lúc trà dư tữu hậu cuả những đàng em của Đô đốc Cang. Tôi đã có dịp trao đổi với anh Trang về những tiết mục sai lầm trong bài viết của anh Trang.
Tôi ước mong sự trình bày trên đây giúp thêm cho công trình của anh được sáng tỏ hơn có giúp cho đọc giã tránh bị ngộ nhận.
Thân kính
Nguyễn Xuân Sơn