Phạm
Duy thời trai trẻ ở chiến khu Bình Trị Thiên
Lưu
ý: Với những người “không quen” hoặc “không thích nghe” những câu nói tục hay
tiếng chửi thề thường diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, lời khuyên chân thành
của tôi là không nên đọc bài viết và cũng không nên nghe những bản tục ca này.
Lý do: Lời 10 bài tục ca của Phạm Duy rất… “phản cảm” và có thể gây sự khó chịu
hoặc bực mình…
Khi
còn sinh thời, nhạc sĩ Phạm Duy đã có đôi lời tâm sự về 10 bài tục ca của ông
đọc trên băng cassette được phổ biến hạn chế và đến nay gần như “thất truyền”:
“Hai
vị viết sách, viết báo về tôi là Tạ Tỵ và Georges Gauthier đều cho rằng cái
vui, cái tếu không phải là chất liệu Phạm Duy, cho nên tục ca không thành công.
Chưa kể có người chê tôi đi tới chỗ nhảm nhí trong nghệ thuật. Tôi cũng hiểu
được vì sao có những người chống đối tục ca dù họ không biết cặn kẽ nội dung
của nó. Tôi không hề tung tục ca ra quần chúng. Tôi chỉ tặng vài người bạn thân
một băng cassette ghi lại buổi hát chơi ở Vũng Tầu và còn dặn dò đừng phổ biến!”
Đám
cưới năm 1948: Phạm Duy trong bộ quân phục bên Thái Hằng
Có
lẽ không nhà phê bình nào có đủ thẩm quyền hơn chính tác giả khi nhận xét về
những điểm yếu trong cuộc đời sáng tác của mình. Trong trường hợp Phạm Duy, ông
đã thẳng thắn nhìn nhận đã có nhiều người “chê” tục ca vì nó đi tới chỗ “nhảm
nhí trong nghệ thuật” nhưng ông cũng vạch ra lý do:“họ không biết cặn kẽ
nội dung của nó”.
Để
biết một cách cặn kẽ nội dung của 10 bài tục ca không có cách gì khác hơn là
phải nghe qua những bài hát này [1]. Về mặt tiết điệu, Phạm Duy viết tục ca
bằng nhiều thể loại, từ dân ca hay qua lối kể chuyện đến rock, blues và đến cả
loại nhạc mà ông gọi là “quốc ca” (tôi nhấn mạnh, hai chữ này phải để trong
ngoặc kép)
Hình
thức ca từ trong tục ca của Phạm Duy rất đa dạng nhưng nổi bật hơn cả là rất
tục tĩu. Có những bài quá sỗ sàng trong cách dùng chữ, chẳng hạn như dùng huỵch
tẹt một số từ ta thường nghe từ cửa miệng những kẻ “đầu đường xó chợ” hoặc dân
“đá cá lăn dưa” hoặc chửi thề một cách không ngượng miệng.
Phạm
Duy – Thái Hằng, một tháng sau ngày cưới (Ảnh
chụp tại Chợ Neo, 1949)
Bạn
đọc sẽ tìm thấy trong 4 tục ca cuối cùng (từ số 7 đến số 10) cả một kho từ ngữ
trần trụi đến đến độ “khó nghe”, huỵch tẹt đến độ sỗ sàng. Tôi không tiện nhắc
lại những từ ngữ đó, làm như vậy sẽ mất đi tính nghiêm túc của bài phân tích,
dù là phân tích về… tục ca.
Hình
như mức độ tục tĩu càng tăng từ tục ca 1 đến tục ca 10. Loạt tục ca này, còn
được Phạm Duy gọi là “những bài ca xã hội”, khởi đầu bằng bài số 1 với tựa
đề Hát đối giữa đôi trai gái theo âm điệu dân ca. Bài hát dựa theo ca
dao:
Em
như cục cứt trôi sông
Anh
như con chó ngồi trông trên bờ...
Phạm
Duy sáng tác thêm phần đối đáp giữa trai và gái:
Em
đừng nói vậy em khờ
Ba
em hồi đó cũng chờ như anh...
…
Anh
như con đực chạy rông
Còn
em như con mèo cái, chổng mông em gào...
…
Anh
đừng nói chuyện tào lao
Má
anh hồi trước... cũng ồn ào như em...
Phạm
Duy - Thái Hằng, trên cầu Thê Húc, Hà Nội, 1953
Trong Tục ca số 2, Phạm Duy “nhại” bài thơ Hai sắc hoa ti gôn của T.
T. KH: “người ấy thường hay vuốt tóc tôi…” để sáng tác thành Tình
hôi. Đây là chuyện tình của một cô gái có người yêu bị hôi nách. Bài hát kết
thúc bằng đoạn kết gây sốc cho người nghe ở câu cuối cùng:
Mỗi
lần ngửi thấy chết đi thôi
Nhưng
chót yêu anh, em ráng chịu cho rồi
Vả
chăng em vẫn thường hay nói:
L…
mình đôi lúc cũng... hôi hôi...
Con
đầu lòng, Phạm Duy Quang
Có những bài lại tục về ý. Chẳng hạn như bài số 3, Gái lội qua khe, mà
Phạm Duy cho biết ông lấy từ ý thơ của Bùi Giáng. Nhạc sĩ giải thích về chiếc
khăn vấn trên đầu, tượng trưng cho tổ tiên, đem cho cô gái mượn để lau mình sau
khi bị ướt dầm vì lội qua suối. Tôi nghĩ đó là “ý tục” trong tục ca của Phạm
Duy. Bài Gái lội qua khe có những lời ca như sau trong đoạn kết:
Tôi
nghe tổ tiên dưới mồ thức dậy
Tổ
tiên cũng nói rằng: gái cứ tự nhiên
Tùy
nghi sử dụng
Lau
bất cứ chỗ nào… cũng được.
Con
thứ hai, Phạm Duy Minh
Tục về cốt truyện thì có bài số 4 với nhan đề Úm Ba La! Ba Ta Cùng Khỏi! lấy
ý của bố Phạm Duy, Thọ An Phạm Duy Tốn, viết trong cuốn Truyện Tiếu Lâm An
Nam xuất bản vào đầu thế kỷ 20. Bài hát này mang một âm điệu dí dỏm bằng
cách lập đi lập lại điệp khúc“Úm ba la! Úm ba la…”
Chuyện
vây quanh 3 nhân vật: chồng đi vắng nên người vợ “tòm tèm” với củ khoai từ,
người chồng về, vợ cáo ốm nên đành “nghịch” với con chó cái nhưng không ngờ dứt
không ra. Cả hai năm đắp chăn nên phải nhờ thầy bùa đến cúng kiến. Thầy lại tơ
tưởng đến nậm rượu trên bàn thờ, bị mắc ngẫng lôi ra không được.
Và
đây là đoạn kết: chị vợ thấy ông thầy tay ôm khư khư nậm rượu nên phì cười, củ
khoai từ phọt ra. Tưởng là miếng thịt nên con chó cái nhẩy vọt ra tìm cục mồi.
Thầy bùa lại sợ chó cắn, hốt hoảng chạy và nậm rượu đập vào bàn, vỡ tan tành.
Thế là cả ba thoát nạn, thầy bùa bèn niệm chú: Úm ba la! Ba ta cùng khỏi!
Con
thứ ba, Phạm Duy Hùng
Khoảng thời gian 1954-1955 Phạm Duy học nhạc ở Pháp. Ông rất mến mộ thi sĩ kiêm
nhạc sĩ và ca sĩ Georges Brassens với những bài hát tục tĩu (chansons
grossières) nhưng bao giờ cũng được biểu diễn với tâm hồn nghiêm túc của một
thi nhân. Bài Gare Au Gorille của Brassens được Phạm Duy chuyển ngữ
sang Tục ca số 5 với tựa đề Khỉ đột. Câu chuyện rất dài dòng, bạn đọc có
thể nghe trong video clip Tục ca số 5. Bài hát có đoạn kết khá bất ngờ:
Nào
ngờ khỉ ta tuy có tiếng tăm
Là
tay khoẻ mạnh, vốn tay dâm thần,
Khỉ
ta khờ lắm!
Phải
chọn bà kia cho đúng lẽ ra
Ngờ
đâu khỉ đột nắm tai ông Toà
Cùng
ra chiến khu...
Con
thứ tư, Phạm Duy Cường
Tục ca số 6 có tựa đề Mạo hóa, từ ngữ Phạm Duy dùng để ám chỉ đồ giả phụ
nữ hay dùng như “đít giả, vú giả, tóc giả, răng giả” (sic). Bài hát
có tới 2 đoạn kết, đạo đức giả và đạo đức thực, được bắt đầu bằng 4 câu:
Tôi
có người yêu cái đít to như Thẩm Thúy Hằng
Cái
đít nhìn qua đã khiến cho ta phải ngỡ ngàng
Vừa
to vừa lớn như những mặt vua
Đẹp
như mặt chúa cũng phải thua
Cứ
thế bài hát chuyển sang bộ ngực, mái tóc, hàm răng đều giả nhưng điều may mắn
là trái tim không thể nào giả được nên vẫn còn giữ được tình yêu. Tôi nghĩ, nếu
muốn biết thêm đoạn kết thứ 2 độc giả nên tự khám phá thì tốt hơn vì quả thật
tôi hoàn toàn mất hết khả năng diễn đạt.
Con
thứ năm, Phạm Thị Thái Hiền
Với Tục ca số 7, thoạt đầu người nghe cứ tưởng như “nhi đồng ca”, nhưng thật ra
lũ trẻ ranh con có một cái thú “tinh quái” là đi nhìn trộm các bà các cô ngồi
tại cầu tiêu công cộng. Ý đã tục rồi nhưng lời lại còn tục hơn với cái tựa đề
thậm chí còn tục hơn nữa: Nhìn l…
Sau
khi mô tả mọi kiểu âm hộ của các bà, các cô ngồi trong cầu tiêu, bài hát đưa ta
đến một đoạn kết thật bất ngờ. Tôi lại đành phải để bạn đọc tự tìm hiểu khi
nghe Tục ca số 7. Lần này không phải vì câu chữ khá “phản cảm” mà là cái bí mật
rất hay của đoạn kết.
Đối
với 3 tục ca cuối cùng (số 8, 9 và 10) tôi cảm thấy không còn đủ kiên nhẫn để
viết tiếp về dòng tục ca của Phạm Duy. Tuy nhiên, phần chú thích vẫn ghi đầy đủ
tựa bài hát và lời giới thiệu của tác giả trong cả 10 viedeo clips. Người đọc
nếu tò mò muốn biết xin cứ tự khám phá.
Con
thứ sáu, Phạm Thị Thái Thảo
Theo Phạm Duy, xã hội miền Nam
vào cuối thập niên 60 đã chuyển từ trạng thái “ngả nghiêng” đến tình trạng
“băng hoại”. Đồng đô-la được đổ vào để đáp ứng nhu cầu càng ngày càng leo thang
của chiến tranh. Trong khi đó, xã hội nảy sinh những tệ nạn như đĩ điếm, ma
túy, buôn lậu còn tướng tá, sư cố lại lao vào chính trị… Có lẽ sự đảo lộn xã
hội đạt đỉnh điểm với một trật tự mới: “nhất đĩ, nhì cha, ba sư, bốn tướng” đã
khiến Phạm Duy có một khúc ngoặt trong sáng tác.
Từ
nhạc trong kháng chiến, tình ca, trường ca, tâm ca, đạo ca… ông chuyển sang
“vỉa hè ca” qua những bài như Sức mấy mà buồn, Bỏ đi Tám, Nghèo
mà không ham, Ô Kê Salem… Những bài hát này dùng loại “ngôn ngữ bình dân
của thời đại” để phản ánh thực trạng xã hội. Theo tôi, đối với “vỉa hè ca”,
người nghe nhạc rất dễ cảm thông và chia sẻ với tác giả qua ca từ bình dị lẫn
nội dung mới lạ. Đây là ý và lời của vỉa hè ca số 1: Sức mấy mà buồn [2]:
Sức
mấy mà buồn! Buồn Giao Chỉ không lớn!
Sức
mấy mà buồn! Chịu chơi cả với buồn...
…
Tôi
buồn vì đấm đá mọi nơi.
Tôi
buồn vì chém giết tơi bời.
Tôi
buồn vì đất nước tả tơi...
…
Sức
mấy mà buồn, cười lên để tranh đấu!
Sức
mấy mà buồn vượt ra khỏi cái sầu!
Sức
mấy mà buồn niềm vui ở ta đến.
Sức
mấy mà buồn phải vui để sống còn!
Con
thứ bẩy, Phạm Duy Ðức
Phạm Duy trần tình: “Lúc tôi soạn vỉa hè ca là lúc quân đội ngoại quốc đổ
bộ ào ạt vào Việt Nam, trước sự xâm nhập của nền văn minh vật chất, một số
người mình quả thực có chạy theo lối sống Âu Mỹ! Sự ham muốn những gì quá tầm
tay của mình, chẳng hạn già như tôi mà còn mê gái sẽ bị gái nguýt cho một cái
“Xí! Già mà ham”.
Bài
“vỉa hè ca” Nghèo mà không ham [3] vẽ ra một bức tranh xã hội của
buổi giao thời với văn minh vật chất Âu Mỹ. “Không Honda ta cũng đi xa,
không đô-la ta cũng “xa-va”, không Sylvia ta có Thanh Nga, không Frank Sinatra ta
có câu hò xê cống xê sang sừ…”.
Hóa
ra “vỉa hè ca” lại biến thành một loại “luân lý ca” với quan niệm “sống đẹp,
chết oai” dù có nghèo trong cuộc sống xa hoa do ngoại bang du nhập:
Sống
cho đẹp là mình sống cho đẹp
Chết
cho oai là mình chết cho oai
Nghèo
mình nghèo là nghèo chơi chơi
Chưa
thực ai thực ai là nghèo...
Con
thứ tám, Phạm Thị Thái Hạnh
Phạm Duy cho biết:“Tôi soạn vỉa hè ca và tục ca trước và sau khi đi Mỹ. Lúc đó,
sự có mặt của người Mỹ tại nước ta là một điều rất trầm trọng, mọi người đều sợ
bị ngoại xâm xâm lăng bằng văn hoá. Người ta không thích Cộng Sản, nhưng người
ta cũng không thích văn hoá Mỹ, nhất là không muốn lối sống Mỹ xâm nhập vào
Việt Nam ”.
Khi
Phạm Duy được mời đi Mỹ theo Chương trình Trao đổi Văn hoá, một số người nghĩ
rằng ông đã bị mua chuộc. Ở Sài Gòn, người ta thường quan niệm ai được Mỹ mời
mọc, người đó phải chắc phải là “tay chân của Mỹ”. Ở Hà Nội cũng vậy, những
người được đi Liên Xô thì chắc chắn phải có liên hệ chặt chẽ sao đó chứ không
thể nào có xuất dành cho “phó thường dân”.
Khi
đi Mỹ về, Phạm Duy mới bắt đầu viết tục ca. Ông giãi bày: “Khi biết tôi
soạn tục ca (chứ không hề được nghe tôi hát tục ca) thì người ta có cái họ cho
là sở đoản để tấn công. Cũng có thể đây chỉ là hành động của những người ghen
ghét về nghề nghiệp, chưa chắc đã là do nơi những người làm chính trị chống Mỹ
cứu nước”.
Đại
gia đình Phạm Duy
Thế nhưng, từ “vỉa hè ca” bước sang “tục ca” vào những năm 1967-1968 là một
khoảng cách quá xa từ hình thức đến nội dung. Phải nói là quá “xa lạ” với những
ngôn ngữ tục tĩu để chuyển tải một nội dung cũng không kém phần lạ lẫm.
Phạm
Duy cho rằng “vỉa hè ca” chỉ là những bài hát thông tục nhưng “tục ca” mới nói
lên sự tức tối, giận dỗi để hét lên những tiếng chửi rủa tục tằn. Tôi nghĩ,
phàm những cái gì “thái quá” cũng sẽ sinh “bất cập”.
Nguyễn
Ngọc Chính
***
Chú
thích:
[1]
Xem tục ca của Phạm Duy được phổ biến trên YouTube qua 10 video clip do chính
tác giả trình bày. Nguyên bản của những clips này được chuyển thể từ băng
cassette được tác giả ghi âm với phần đệm guitar và hát nên trong video clips
chỉ thấy chạy những lời giới thiệu và ca từ (audio) chứ không có hình ảnh
(video).
Tục
ca số 1: Hát đối
Tục
ca số 2: Tình hôi
Tục
ca số 3: Gái lội qua khe
Tục
ca số 4: Úm ba la! Ba ta cùng khỏi!
Tục
ca số 5: Khỉ đột
Tục
ca số 6: Mạo hóa
Tục
ca số 7: Nhìn lồn
Tục
ca số 8: Em địt
Tục
ca số 9: Chửi đổng
Tục
ca số 10: Cầm cặc
[2]
Nghe Sức mấy mà buồn tại:
[3]
Nghe Nghèo mà không ham do ban nhạc Số Dzách trình bày tại:
Jan
28, 2013
Trong
suốt một đời, tôi chỉ muốn được nói thật nhiều về đất nước và con người Việt Nam . Khi thì
nói với ngôn ngữ ngợi ca và tả thực hay hiện thực như trong nhạc kháng chiến.
Khi thì nói một cách trừu tượng, siêu hình với ...
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.