Mấy
hôm trước tôi có dịp đón một đoàn giáo sư người Phần Lan làm khách mời sang
Việt Nam
làm việc sẵn dịp nói chuyện với các em sinh viên. Họ là những người từng nhiều
năm đứng trên bục giảng, và rồi những suy nghĩ và thắc mắc của họ khiến tôi
không khỏi gác tay lên trán và ngẫm về chuyện làm giáo dục của nước mình.
Note: hình trong bài này là
minh họa
Khi
dẫn vị giáo sư đến giảng đường tại một trường đại học lớn ở Việt Nam, vị giáo
sư có vẻ hơi bất ngờ, vì cái bục giảng mà ông phải đứng nói chuyện cao hơn
nhiều so với các em sinh viên, nhất là khi ông đứng nói chuyện còn các em đang
ngồi. Có lẽ vì thế mà suốt buổi, vị giáo sư phải cố gắng hạn chế bước lên bục
giảng tối đa, thay vào đó là thường xuyên di chuyển đến gần nơi các em sinh
viên ngồi để tương tác với từng em một.
Các
em sinh viên ai cũng thích thú. Phần là vì ngưỡng một cái sự chân chất và giản
dị của một vị giáo sư có tiếng đầu ngành, đến từ quốc gia được ví là “thiên
đường giáo dục”. Phần là ưng cái sự gần gũi và nhiệt tình như thể người trong
nhà qua phong thái tương tác và trao đổi liên tục với các em. Đó là chưa kể,
buổi nói chuyện diễn ra tương đối cân bằng, khi thầy nói thì trò cũng hưởng ứng
bằng cách phát biểu xây dựng bài tạo hiệu ứng phấn khởi lan tỏa. Ông thầy di
chuyển liên tục, thậm chí bỏ Micro để nói chuyện “chay” với các bạn sinh viên ở
góc xa. Để rồi cuối ngày, các em phải tặc lưỡi tiếc nuối vì còn hàng tá câu hỏi
gợi mở mà các em còn chưa kịp được đặt ra để trao đổi với người thầy “tuy xa mà
không lạ”.
Chuyện
“cái bục giảng cao ngất” và sự ứng xử tinh nhanh của ông thầy phương Tây khiến
tôi thấm thía tại sao người ta gọi Phần Lan là thiên đường giáo dục. Tại nhiều
nước châu Âu, điển hình là Phần Lan, cái bục giảng có cao đến mấy cũng thấp hơn
vị trí học sinh, sinh viên ngồi dự. “Đó là một vị trí bình đẳng và không áp đặt”,
vị giáo sư giải thích. Triết lý giáo dục bình đẳng của người Phần Lan đi từ cái
bục giảng cũng khiến nhiều người phải ngỡ ngàng. Thầy cô chính là nền tảng,
nhưng trung tâm và trên hết vẫn là học sinh. Thầy cô cung cấp phương pháp, định
hướng, giúp đỡ sàng lọc thông tin… còn việc tìm ra kiến thức phải bắt nguồn từ
phía người học, nhất là trong thời đại số, việc tìm kiếm kiến thức không còn là
chuyện khó khăn.
Ở
mình, cái bục giảng lúc nào cũng cao, và thầy cô thường gắn liền với cái bục
giảng – một thế giới khác mà đôi khi người học cũng chẳng dám “bẻng mãng” lại
gần. Ngay cả khi kiểm tra bài cũ, các em đứng gần bục giảng cũng chỉ toàn áp
lực, chẳng có một sự giao tiếp bình đẳng nào ngoài việc phán xét và chấm điểm.
Thầy cô thường hiếm khi rơi khỏi cái bục giảng ấy, có khi cả buổi học cũng chỉ
đọc, chép khiến lũ học trò lắm khi nói đùa “nghe mùi khét vì cháy ghế”. Và dần
dần, cái bục giảng, ngay cả trong thơ ca hay hò hát, trở thành một biểu tượng
cho sự “cao xa” cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của quý thầy cô, thay vì bổn phận
của họ là đứng mũi chịu sào, nâng đỡ, dìu dắt và xây dựng nền tảng phương
pháp học tập vững chắc cho các em.
Tôi
có đứa em học lớp chín. Ngày chuẩn bị thi học kỳ, thay vì xem lại các dạng toán
và các cách giải tương ứng, em tôi lại học thuộc các bài toán thầy cô cho ở lớp
lẫn lúc học thêm. Nó bảo “thầy giới hạn ra đề cho học sinh đỡ vất vả”. Tôi có
giúp em mình giải toán, nhưng rồi em tôi lo ngại “hôm trước có đứa bạn giải
toán theo cách của chị gái chỉ cho. Kết quả chính xác, duy chỉ có cách làm khác
với đáp án nên thầy chấm rớt”. Thế là, thay vì phát triển bài toán theo nhiều
hướng, em tôi quyết tâm trở thành “một con vẹt” do những “nhà làm xiếc” đứng
trên bục giảng huấn luyện. Có lẽ vì thế mà các giải thưởng toán quốc tế, hay
trình độ toán học của các em học sinh Việt Nam tương đối cao so với mặt bằng
chung của thế giới, vì các em vốn ngoan lại rất trung thành, bởi chỉ cần “nổi
loạn” bất chấp bài giải của thầy cô, thì không ít người đứng trên bục giảng sẵn
sàng “hạ bệ” các em.
Đứa
em tôi còn thường xuyên than phiền “các bạn học sinh giỏi được ưu tiên nhiều
quá. Có bạn thì được thay mặt cô quản lớp khi cô ra ngoài”, có em thì được “ghi
lại các em không làm bài, không thuộc bài”; thậm chí còn có em thay thế thầy cô
phán tội bạn mình, buộc bạn mình phải nộp phạt. Đó là chưa kể học điểm cao thì
được các ưu đãi nghỉ lao động, nghỉ trực nhật… khiến bạn bè cùng lớp vừa chạnh
lòng, vừa hờn tủi. Đó là mầm mống cho cái mà người châu Âu gọi là bất công, bất
bình đẳng, bởi em nào cũng bỏ tiền để học, em nào cũng có nhu cầu học hành, và
ai cũng có nhu cầu tiến bộ. Việc “thương em giỏi”, bỏ rơi em yếu kém chưa bao
giờ đạt hiệu quả, cả về mặt giáo dục đạo đức hay giáo dục tri thức. Thế mới xảy
ra cớ sự các em học yếu chẳng có nơi để tựa, để bám víu, để được kéo lên, ít
nhất là về đạo đức, tình người. Và thế mới có chuyện ganh ghét, đố kỵ và bạo
lực học đường cứ xảy ra nhan nhản như chuyện thường ngày.
Một em học trò lớp 7
chỉ vào mặt bạn mình “mày là ai mà dám cấm tao nói chuyện trong lớp”, và rồi một
cậu bé lớp trưởng bị ăn đòn bầm dập khi vừa ra khỏi cổng trường, bất chấp những
bài giảng về đạo đức mà các thầy, các cô vẫn đọc ra rả khi ngồi trên bục giảng.
Cái bục giảng không chỉ không giúp truyền đạt được bài học, mà nó còn vô tình
tạo ra một hình tượng thầy cô rất xa xôi, không đáng tin cậy lẫn không cần
thiết phải nghe lời.
“Cái
bục giảng” chẳng biết từ thuở nào cứ in sâu vào đầu của không ít thầy cô người
Việt. Để rồi chẳng em nào dám vượt qua “cái bóng” quá cao, quá khắc nghiệt của
không ít thầy cô. Thế nên, dẫu các em có trở thành những “cổ máy” siêu phàm như
thể các robot tính toán tốc độ cao, nhưng rồi Việt Nam mãi cũng chẳng có những
cái tên ghi danh trên bảng vàng Nobel khoa học. Bởi những thứ vốn được xem là
“sáng tạo”, là “bứt phá” vốn chỉ có thể phát triển từ khi các em còn là những
trang giấy trắng với sức tưởng tượng vô tận. Chứ khi đầu các em bị nhồi nhét
những bài toán, câu thơ với những phương pháp, cách thức mang tính khuôn khổ cố
định và cứng nhắc, thì mãi mãi cũng chẳng thể thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn
của “cái bục giảng” được.
Ở
nước ngoài, một người thầy khi chọn học sinh cho mình thường bảo “tôi cần bạn”.
Nhưng còn ở mình, thường thì thầy cô cho rằng “tôi chọn em”, và nghĩa là tôi
đang đứng trên bục giảng, còn em hãy cố gắng một ngày nào đó bước lên bục giảng
thay tôi, như cái cách mà “con của Chí Phèo lại bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ”.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.