Khác
với quân đội của các đế quốc, quân đội Việt Nam đã luôn phải xây dựng sức mạnh
trên chính lòng ái quốc của dân tộc mình.
Ngay
cả khi Đại Nam đạt đến sức
mạnh của một đế quốc Đông Dương, quân đội Đại Nam chưa biết vận dụng sức lực của
các sắc tộc Chàm, Ai Lao hay Thủy Chân Lạp.
Sức
mạnh của quân đội Việt Nam
là sức mạnh của sự đoàn kết, chết để giữ đất và chết để mở đất, của sắc tộc
Kinh. Mạc Cửu ở Hà Tiên là một biệt lệ.
Ngược
hẳn, quân La Mã hay Thập Tự Chinh là một hỗn hợp các sắc dân tham chiến vì lý
tưởng chinh phục hoặc chống Hồi giáo.
Gần
hơn, quân đội Anh trong hai thế chiến tập hợp lính Ái Nhĩ Lan (Ireland), Tân
Tây Lan (New Zealand), Gia Nã Đại (Canada), Úc, Nam Phi và Ấn Độ, tinh thần ái
quốc không hẳn là động cơ tham chiến của những người lính này.
Trường
hợp Quân đội Liên hiệp Pháp không khác. Quân đội Pháp sử dụng một bộ phận lớn
lính Ma-rốc, Algérie, Tunisie, Sénégal , Congo , Cameroun và binh chủng Lê dương.
Trên
chiến trường Việt Nam ,
lính ngoại quốc đông hơn lính Pháp, 52% quân số Lê dương là cựu binh Đức.
Có
thể viết: Sức mạnh của các quân đội đế quốc là sức mạnh tổng hợp, xây dựng trên
sức tổng hợp các lý thuyết, nhân chủng, nguyên vật liệu, kỹ thuật, tài chánh và
cả lý tưởng.
Quốc
gia Việt Nam
chưa đạt đến sức mạnh này, tinh thần ái quốc vẫn là sức mạnh duy nhất.
Đến
chiến tranh Việt-Pháp, quân đội của Đại Nam gặp thử thách lớn khi lần đầu
tiên phải đương đầu với quân đội Tây phương.
Quân
nhà Nguyễn thất bại liên tiếp khiến triều đình Huế phải ký các hòa ước Nhâm
Tuất 1862, Giáp Tuất 1874, Quý Mùi 1883, rồi đến hòa ước Giáp Thân 1884, tức
hòa ước Patenôtre, công nhận vĩnh viễn nền bảo hộ Pháp.
Lòng
ái quốc đã không tạo ra đủ sức mạnh để thắng các phương tiện kỹ thuật của đối
phương.
Chiến
thắng của quân viễn chinh Pháp là chiến thắng của một nền công nghiệp nặng đã
nghiền nát một nền nông nghiệp lạc hậu.
Một
cách khác, quân đội nhà Nguyễn tụt hậu kỹ thuật đến mức mà tinh thần ái quốc và
lòng can đảm không thể bù đắp.
Cái
chết tiết tháo của các đại thần Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu
để lại trong lòng dân tộc vô vàn thương tiếc, cùng kính trọng.
Nhưng
những cái chết này không cứu vãn được nền độc lập quốc gia, chúng chỉ cứu vãn
duy nhất danh dự của tầng lớp quan lại và triều đình.
Cơ
hội đến và đi
Mấy
thế kỷ trước, sức mạnh Phương Tây ập đến áp đảo châu Á
Canh
tân trở nên cần thiết
Nhưng
không phải lúc nào quốc gia cũng có đủ thời gian và đủ khả năng canh tân. Lịch
sử là một chuỗi cơ hội mà chỉ những quốc gia nào biết kịp nắm bắt mới có thể
giành lấy những cơ hội kế tiếp.
Hệ
thống dân vận và Viện Sử học Hà Nội cố gắng tìm ra những điểm tương đồng giữa
phong trào Tây Sơn với Chính quyền Cộng Sản.
Trong
thực tế, nhìn theo chiều dài lịch sử, chính phủ Việt Nam đương quyền có nhiều điểm tương
đồng với nhà Nguyễn và rất khác Tây Sơn trong cách đối đầu với phương Bắc.
Trên
mặt quân sự, quân nhà Nguyễn đã tiến vào Nam Vang lập Trấn Tây thành nhưng không
bình định được Chân Lạp, Quân đội Nhân dân cũng đã trải qua kinh nghiệm này.
Trên
mặt chính trị, chính quyền Tây Sơn không thật sự thần phục nhà Thanh trong lúc
các triều vua Nguyễn đã luôn nhìn về phương Bắc và phụ thuộc vào động thái của
Thanh triều trong phương cách ngoại giao với Tây phương.
Chính
quyền Việt Nam
hiện nay ứng xử tương tự.
Điểm
tương đồng lớn nhất giữa chính phủ hiện tại với nhà Nguyễn nằm ở sự chậm trễ
canh tân sau khi thống nhất đất nước.
Kể
từ thế kỷ 19, lịch sử dân tộc cho phép duy nhất hai thời kỳ khả dĩ có thể canh
tân quân đội: Bốn triều vua đầu nhà Nguyễn và từ thập niên 90 đến nay. Các giai
đoạn khác, quốc gia chìm đắm trong chiến tranh và loạn lạc.
Hoàng
đế Gia Long có nhiều thuận lợi: Mối giao hảo ban đầu khá tốt đẹp với Pháp
hoàng, ngay cả khi Pháp hoàng Louis XVI bị cách mạng đánh đổ, đường dây ngoại
giao đã thiết lập, và ngay cả khi mối quan hệ này đứt đoạn, Âu châu đang chìm
trong chiến tranh của Nepoleon cho phép Đại Nam một thời kỳ dài bình yên.
Các
giám mục, giáo sĩ, kỹ sư theo phò Gia Long đã chứng tỏ trung thành và đắc lực.
Một chính sách phổ biến kiến thức của các kỹ sư này, một cách quy mô, mở mang
công xưởng và tận dụng tri thức Tây phương bằng cách thuê mướn người Âu châu
như Nhật Bản sẽ thực hiện về sau, đã có thể cải tổ quân đội Đại Nam một cách
hữu hiệu.
Gia
Long còn thừa hưởng âm vang của hai chiến thắng Rạch Gầm và Đống Đa của Nguyễn
Huệ, khiến Xiêm La và Đại Thanh quốc nể vì nhưng Gia Long đã không tận dụng
những ưu thế này.
Các
hoàng đế kế nhiệm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã không nhìn thấy bối cảnh
thế giới vẫn còn thuận lợi và Đại Nam là một trong những quốc gia mạnh ở Á
châu, kể cả khi so sánh với Nhật Bản.
Phía
Bắc, Thanh triều phải đối đầu với các nội loạn triền miên ở Lưỡng Quảng cho đến
1864 mới dẹp yên Hồng Tú Toàn.
Cuộc
chiến với Thái bình Thiên quốc làm Thanh triều kiệt quệ.
Phía
Đông Bắc, Cao Ly đang bị Mãn Thanh chiếm đóng, còn Nhật Bản vẫn đóng cửa không
giao tiếp với thế giới.
Nhật
Bản đã kịp canh tân nhưng Việt Nam, Triều Tiên và Trung Hoa đều thất bại
Nhật
Bản liên tiếp trải qua 11 trận đói trong suốt một thế kỷ rưỡi, mà nạn đói sau
cùng diễn ra vào năm 1837. Các sứ quân Tokugawa suy yếu dần.
Phía
Nam , Mã Lai không đủ sức uy
hiếp Đại Nam .
Phía Tây Nam ,
Xiêm La với 4 triệu dân không cản được Trương Minh Giảng tiến vào Chân Lạp.
Phía
Tây Bắc, vương quốc Miến Điện với 3 triệu dân không có cả quân đội chính quy để
gây hấn với Đại Nam .
Lính Miến, trưng binh khi chiến tranh, không được tổ chức thành một đạo quân
thường trực.
Phía
Đông, biên giới Hoa Kỳ chỉ chạm đến Thái Bình dương vào năm 1848 sau khi giành
lấy California từ tay quân đội Mexico.
Hiểm
nguy đến từ Âu châu. Tuy nhiên, ngoài các thương điếm, Hà Lan và Bồ Đào Nha
không đủ sức mở những cuộc viễn chinh lớn. Tây Ban Nha tuy hiện diện ở Phi Luật
Tân đã bắt đầu chu kỳ suy tàn.
Đế
quốc Phổ, một sức mạnh lục địa, không ưu tiên xây dựng hạm đội và hãy còn đang
tìm cách chế ngự quân đội Pháp.
Trường
hợp Pháp, tiềm năng khoa học kỹ thuật và tham vọng vẫn tràn đầy nhưng hải quân
Pháp bị tiêu hủy trong thủy chiến Trafalgar chưa vực dậy.
Đế
chế Nga tập trung sức lực hoàn thành tuyến đường hỏa xa xuyên Tây Bá Lợi Á để
tiến vào Mãn châu bằng đường bộ, vì Bắc Băng dương đóng băng quanh năm, khiến
tham vọng Nga giới hạn vào Bắc Á.
Hoàng
gia Anh đã bắt đầu xuất hiện ở miền duyên hải Miến Điện và Mã Lai ngay từ 1826,
mở các thương điếm và ký thương ước.
Trước
yêu sách của các công ty hàng hải Peninsular and Oriental và Cunard Line, các
triều vua George rồi Nữ hoàng Victoria sẽ gửi thêm chiến thuyền sang Á châu
nhưng tập trung vào các vùng đất vừa khám phá ở Úc và Tân Tây Lan, rồi Trung
Hoa, khiến lãng quên Đại Nam.
Các
vua đầu triều Nguyễn, như thế, vẫn còn thời gian.
Ngoài
hai năm khởi loạn của Lê Văn Khôi và động loạn của vài bộ tộc thiểu số ở miền
Thượng du Bắc Việt, nhà Nguyễn có sự ổn định ngai vàng và đã biết đến sự hiện
diện của một nền văn minh khác ở Tây bán cầu.
Chính
sự hiện diện của nền văn minh này mới có thể giúp canh tân nếu có một chính
sách đối ngoại vừa trung lập, vừa tương tác với nhiều quốc gia, vừa mở cửa tiếp
nhận kỹ thuật Tây phương.
Đạo
Khổng nay bỗng được Hà Nội đề cao
Trong
suốt sáu thập kỷ, từ lúc Gia Long tiến vào Phú Xuân cho đến khi Tự Đức nhận tối
hậu thư của Pháp, triều Nguyễn đã không canh tân.
Phó
mặc số phận?
Chính
sự thụ động này đã kết án số phận dân Việt, một kết án chung thân khi những
canh tân quyết định thế giới diễn ra trong thế kỷ 19.
Nhà
Nguyễn đã không áp dụng phương châm của Otto von Bismarck: "Chính trong
thời bình phải đúc súng."
Sang
thế kỷ 20, đầu thập niên 90, lịch sử đem đến cho dân tộc một cơ hội thứ nhì.
Trước đó, Chính quyền Cộng Sản đã bị cả hai đế quốc Trung Hoa và Hoa Kỳ cô lập.
Trong
mặt nội chính, chính quyền này đã tự cấm vận tri thức của dân tộc khi không cho
phép bất kỳ một giao dịch nào với thế giới.
Thập
niên 90, cánh cửa mở ra bên ngoài phơi bày hình ảnh của một quốc gia tụt hậu.
Dân
chúng ý thức rất rõ: Việt Nam
đã bị nhân loại qua mặt.
Tuy
vậy, quốc gia không nội loạn, đầu tư thế giới đã vực dậy kinh tế, sự thay đổi
chiến lược của các đế quốc, sự thay đổi các ý thức hệ, vị trí và tiềm năng quốc
gia dần khôi phục cho phép dân tộc một hy vọng.
Nhưng
cho đến phút này, tiến trình công nghiệp nặng và hiện đại hóa toàn diện quân
đội vẫn còn phôi thai.
Có
thể giải thích vì Việt Nam
vẫn là một quốc gia nghèo, dân trí thấp.
Câu
trả lời là nếu không canh tân, sẽ không bao giờ có thể nâng cao dân trí và nâng
cao mức thu nhập quốc dân mà không vay mượn.
Hiểm
nguy Trung Hoa còn là một lý do cấp thiết. Thời Mã Viện, dân tộc bị đô hộ vì
thua kém binh lực mà quyết tâm không để bị đồng hóa còn cho phép khởi nghĩa
giành lại đất đai, quyền làm người.
Dưới
triều Tự Đức, dân tộc bị đô hộ vì không thể bắt kịp kỹ thuật Tây phương, vì đã
không hiểu các cuộc xâm chiếm nằm trong một chuyển động toàn cầu, trong phân
chia giữa các đế quốc.
Cả
hai nguy hiểm hôm nay nhập một.
Với
kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa
Các
đại cường đã chia vùng ảnh hưởng ở hội nghị Yalta
Nếu
thập niên 70 tương đương với nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn và chấm dứt khi
Nguyễn Ánh vào Phú Xuân, thập niên 80 tương đương với triều Minh Mạng tiến quân
vào Chân Lạp rồi đồn trú và sa lầy, thì thập niên 90 cũng tương đồng với giai
đoạn chuyển tiếp của triều Thiệu Trị.
Hôm
nay, sang thập niên 2010, dân tộc đã ở vào giữa triều Tự Đức và hiểm nguy thì
hiện ra trông thấy.
Nếu
chậm trễ, quốc gia sẽ lâm vào hoàn cảnh của Tự Đức còn chưa đầy một thập niên
trước khi nhận tối hậu thư của giặc.
Một
cách khách quan, ở vào giữa triều Tự Đức là đã muộn. Vì vận tốc canh tân của
quốc gia, nếu thực hiện, vẫn chậm hơn vận tốc phát triển kinh tế, binh lực, vũ
khí hiện đại của Bắc Kinh đã đạt đến tầm mức lớn.
Nhưng
dân Việt vẫn muốn tin hãy còn kịp, chưa muộn.
Phải
canh tân trước khi một Yalta thứ nhì chia chác các vùng ảnh hưởng được ký kết
giữa các đế quốc Nga, Hoa, Mỹ, như đã xảy ra vào tháng 2-1945 giữa Churchill,
Roosevelt và Stalin, trao những tiểu quốc này vào tay đế quốc kia và những tiểu
quốc khác vào tay đế quốc nọ.
Với
một phân vùng như vậy, Việt Nam
sẽ không thoát được số mệnh trở thành chư hầu của Trung Hoa và tương lai dân
Việt sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào lương tâm Bắc Kinh.
Hạn
chót của canh tân đất nước đã điểm.
Trần
Vũ
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.