Có
lẽ không ai trong chúng ta, những người từng học Tiểu Học trước 1954 đều thuộc
lòng câu: “Giang sơn ta chạy dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu” và vẫn mang
trong đầu hình ảnh một Ải Nam Quan với hai giai thoại đặc biệt về cửa Ải này:
Mạc Đĩnh Chi 1280 - 1346
1-Năm 1308, Mạc
Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên. Vì đường gập ghềnh, nên đến cửa khẩu trễ, quân canh
gác bắt phải chờ đến sáng hôm sau. Thấy sứ bộ yêu cầu mở cửa thành, viên quan
phụ trách canh cửa ải thả từ trên lầu cao xuống một câu đối, nói rằng nếu Đại
Việt đối được thì họ sẽ mở cửa. Câu đối có nội dung như sau:
Quá
quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
(nghĩa
là: Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua)
Một
vế đối hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá! Mạc Đĩnh Chi lập tức đối ngay:
Tiên
đối dị, đối đối nan, thỉnh Tiên sinh tiên đối.
(nghĩa
là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời Tiên sinh đối trước).
Vế
đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên, đúng với yêu cầu câu đối của viên
quan ấy và vì khá nhanh, nên quan nhà Nguyên phải phục và vội mở cửa thành để
ông đi qua.
Như
thế, Ải Nam Quan đã hình thành trước thế kỷ 14 rồi.
2-
Nguyễn Phi Khanh làm quan cho nhà Hồ, tước Hàn lâm học sĩ rồi lần lượt
thăng lên Thống chương Đại phu, Đại lý tự khanh kiêm Trung thư Thị lang, Tư
nghiệp Quốc tử giám. Năm 1407, khi quân nhà Minh xâm lược nước
Việt, Nguyễn Phi Khanh tham gia đánh nhau với Tầu, nhưng bị thua và bị bắt giải
về Trung Quốc, qua cửa Ải Nam Quan. Nguyễn Trãi là con trai, đi theo
Cha đến tận Ải Nam Quan, rồi với hai hàng lệ lã chã, chia tay thân phụ ngay tại
cổng Ải, rồi về lại quê nhà, và đi tìm Minh Chủ để giúp nước theo lời dặn của
thân phụ. Việc này lại chứng minh là Ải Nam Quan nguyên thủy đã có từ nhiều thế
kỷ trước, và đường biên giới giữa hai nước chạy ngang qua Ải Nam Quan, hiện nay
nằm sâu trong lãnh thổ Tầu, không phải cái kiến trúc hiện tại do Tầu xây sau
này và hiện nay là điểm giao thương giữa hai nước.
Nguyễn
Trãi khóc cha là Nguyễn Phi Khanh tại ải Nam Quan
Thật
ra, không ai biết Ải Nam Quan được xây dựng vào thế kỷ nào, chỉ biết trước đó,
vào thế kỷ thứ 10, 11, và 13, quân Bắc phương từng tấn công vào nước ta, đều
xuất quân từ Ải Nam Quan cũ cách đường biên giới hiện tại gần 2000 mét.
Theo http://ngodinhdiem.net/Lanh%20tho/AiNamQuan.html,
vào thế kỷ 19, trước khi ký hiệp ước Thiên Tân, quân Pháp và quân
Thanh đã đại chiến ở cửa Ải Nam Quan (hình A 3, “Trấn Nam Quan Đại Chiến” minh
họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào năm
1885). Sau đó, vì không muốn giao chiến dằng dai với quân Tầu, thực dân Pháp
buộc Việt Nam phải ký hiệp ước Thiên Tân công nhận Ải Nam Quan là thuộc của
Tầu, và bắt Việt Nam ta phải lùi ranh giới vào sâu trong nội địa của ta. Sau
đó, trong chiến tranh biên giới Việt-Trung, tháng 2 năm 1979, Tầu đã mang hơn
200,000 quân tấn công sáu tỉnh biên giới phía Bắc và đã chiếm được các thị xã
Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn. Theo tài liệu của Bắc Bộ phủ, thì “Bộ binh Trung
Cộng vào thị xã Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, vào thị xã Cao Bằng theo
thung lũng sông Bằng và vào thị xã Lạng Sơn theo thung lũng sông Kỳ Cùng rồi
vào ải Nam Quan.” Khi ngưng chiến vào ngày 5 tháng 3 năm 1979, quân Tầu
lại lấn thêm một số vùng phía Nam của Ải Nam Quan, và thế là và trạm quan thuế
của Cộng Sản phải dời vào sâu trong lãnh thổ ta, từ 300 đến 400 m về phía Nam. Cộng
Sản Việt Nam
vì thế yếu, nên im thin thít, không dám đòi lại đất.
Đến ngày 30 tháng 12 năm
1999, tại Hà Nội, hai ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm của Cộng Sản Việt Nam và
Đường Gia Triền của Tầu chính thức ký ‘Hiệp ước biên giới trên đất
liền’, chấp nhận ải Nam Quan cũ thuộc về Tầu. Hiệp ước này được
quốc hội Tầu thông qua ngày 29 tháng 4 năm 2000, và quốc hội Cộng Sản thông qua
ngày 9 tháng 6 năm 2000. Từ đó, tiến hành việc cắm lại mốc biên giới cho đến
năm 2008. (Đây chính là một hiệp ước Bán Nước mà Cộng Sản Việt thực hiện sau
cái công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng).
Vì
thế, trong sử sách của Cộng Sản Việt Nam , không hề có chữ nào nhắc nhở
đến Ải Nam Quan nữa cả. Và để yên tâm hưởng quyền lợi mà không sợ bị Tầu Cộng
giáng cho một bài học nữa, Bộ Chính Trị Bắc Việt cấm không được ai nói đến việc
đòi lại Ải Nam Quan. Điều đau lòng và nhục nhã cho người Việt là có những kẻ cũng
tin vào Tầu Cộng mà nói rằng Ải Nam Quan là của Tầu.
Những
kẻ không có lương tri, không trí thức nên đồng thuận với Đảng Cộng Sản Việt Nam
và vỗ tay tán thưởng việc Ải Nam Quan là của Tầu, đồng thời chế nhạo những ai
muốn bảo vệ đất đai của Tổ Quốc khi đồng hóa cái Kiến Trúc Ải Nam Quan với Mảnh
Đất mà trên đó cái cửa Ải được xây dựng.
Một điều vô cùng quan trọng mà chúng
ta phải phân biệt là: 1) cái kiến trúc Ải Nam Quân xây bằng gạch đá và 2) Mảnh
Đất mà trên đó, cái kiến trúc kia được xây lên. Người Việt đau lòng vì mất phần
đất mà trên đó, cái chòi canh mà Tầu đặt tên là Trấn Nam Quan, Mục Nam Quan đã
xây, chứ không ai thèm cái kiến trúc, cái chòi canh do Tầu phù xây!
Giả
dụ mà có đòi được lại phần đất đó, thì nhất định người Việt sẽ đập vụn cái kiến
trúc Tầu Phù đó đi mà xây lên một kiến trúc khác, chứ không ai đi đòi một
căn nhà mà kẻ khác đã xây lên trên đất mình. http://www.chuacuuthe.com/2014/03/ai-nam-quan/
Trở
lại chữ Ải Nam Quan. Chữ “Ải” là gì? “Ải” là một ranh giới, một đường biên, một
phân cách giữa hai lãnh vực. Người xưa có câu: Anh Hùng không vượt qua được Ải
Mỹ Nhân! Trong câu này, Ải Mỹ Nhân không phải là một cái chòi canh, một trạm
gác, mà là một biên giới vô hình giữa Thiện và Ác, giữa tính Anh Hùng và sự đầu
hàng trước giai nhân, giữa sự nghiệp cao quý và tính tầm thường của một con
người.
Còn
Ải Nam Quan ở đây, không phải chỉ là cái chòi canh được xây thành mấy tầng, mà
là một đường biên giới quanh co nằm vào vĩ tuyến 8o33, cực Bắc của nước ta. Theo
những tấm hình đã được chứng minh trong bài Ải Nam Quan trước đây, Ải Nam Quan
là một dẫy thành uốn lượn theo triền núi, rồi từ một điểm thuận tiện giữa Ải,
cả hai nước đồng ý mở một cánh cổng thông thương, và vì Tầu là nước lớn hơn,
giầu hơn, mạnh hơn, nên đã bỏ nhân lực và tiền bạc ra xây cái cổng (chòi canh)
này.
(Xin
vào link: http://ngodinhdiem.net/Lanh%20tho/AiNamQuan.html để
nhìn thấy những tấm hình cụ thể về “cái gọi là” Ải Nam Quan, có thể là một con
đường đi lên Ải, có thể là dẫy nhà dân chúng cạnh dẫy nhà lính tráng, cũng có
thể là môt khoảng sân rộng trước cái chòi canh xây cất cao nghệu…)
Trích
đoạn một bài của Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Liêm về Ải Nam Quan:
“Ðất
nước của chúng ta càng nhìn về thuở xa xưa chừng nào càng rộng ra và càng lùi
sâu về phía Bắc chừng nấy. Chúng ta không có những bản đồ ghi rõ những đổi thay
đó qua thời gian dài mấy ngàn năm trước Tây Lịch. Nhưng trong tâm hồn người dân
Việt vẫn còn những mốc cấm phân chia ranh giới giữa ta và Tàu. Mốc cấm thứ nhất
là cột đồng Ðông Hán do tướng Mã Viện cấm hồi khoảng năm 42 Tây Lịch. Mã Viện
cho cấm trụ đồng nầy để phân chia ranh giới giữa hai nước. Trên cột đồng có
khắc câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” mà đa số người Việt Nam đều nhớ nằm
lòng. Câu đó có nghĩa là khi nào trụ đồng gãy đổ thì dân Giao Chỉ sẽ bị tiêu
diệt. Sợ trụ đồng gãy đổ nên ông cha ta, mỗi người một viên đá cứ đem tới mà đắp
vào dưới gốc trụ đồng cho đến một ngày kia đá chất lên thành núi lấp mất cả trụ
đồng. Cột đồng Mã Viện ở đâu, nay ta không còn dấu vết gì cả. Trước đây trong
số các thức giả có người ức đoán vị trí của cột đồng nằm trong vùng đất Cổ Lâu
hay ở trong chân núi Phân Mao thuộc Châu Khâm của tĩnh Quảng Tây bên Tàu.
sheet
6354-4 (U.S. Army Map Service)
Ải
Nam Quan nằm ở địa đầu tĩnh Lạng Sơn, cách Hà Nội 167 km về phía Ðông Bắc. Lạng
Sơn là một tỉnh lớn có 6,200 cây số vuông diện tích. Ở phía Bắc, Lạng Sơn giáp
giới với tỉnh Cao Bằng và Trung Hoa. Ở phía Tây là tỉnh Bắc Kạn, phía Tây Nam là Thái
Nguyên. Phía Nam
giáp tỉnh Bắc Giang và phía Ðông là tỉnh Hải Ninh. Lạng Sơn ở trên cao độ thay
đổi từ 100m đến 1,000 m. Vì xa biển nên hơi lạnh so với Hải Ninh; nhiệt độ
trung bình ở đây là 21.7 độ C. Con sông quan trọng chảy qua Lạng Sơn là sông Kỳ
Cùng, dài 170 km. Khoảng cách từ Hà Nội lên tỉnh lỵ Lạng Sơn là 154 km về hướng
Ðông Bắc. Từ dây đi thêm 2 km nữa là đến Phố Kỳ Lừa. Phố hay chợ Kỳ Lừa lập ra
hồi tiền bán thế kỷ XV, là một nơi buôn bán sầm uất. Ở đây có món nem chua cũng
rất nổi tiếng. Từ Kỳ Lừa đi thêm 10 km nữa thì đến Ðồng Ðăng, nơi đây có nhiều
phong cảnh đặc biệt.. Từ Ðồng Ðăng đi thêm 5 km nữa là đến Ải Nam Quan. Phía
Tây Phố Kỳ Lừa có động Tam Thanh. Ðộng Tam Thanh cũng gọi là chùa Tam Thanh vì
dây là ba hang động có thờ Phật trong đó. Ðộng nhỏ nhất trong ba động là Ðộng
Nhất Thanh trong đó ngoài tượng Phật còn có thờ Ngô Thì Sĩ, cha của Ngô Thì
Nhậm. Ngô Thì Sĩ đỗ tiến sĩ năm 41 tuổi, làm quan đến Ðốc Trấn Lạng Sơn. Oâng
là người rất liêm khiết , rất thương dân, lo lắng giúp đỡ dân nên khi chết được
dân chúng tạc tượng thờ ở đây.
Trước
động Tam Thanh có núi Vọng Phu và tượng nàng Tô Thị mà câu chuyện thương tâm đã
được nhạc sĩ Lê Thương diễn tả trong những bảng nhạc Hòn Vọng Phu bất tử của
ông. Các địa danh nổi tiếng nầy cũng đã được người dân Việt ghi lại trong những
câu ca dao :
“Ðồng Ðăng có Phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”.
Từ
xưa tỉnh Lạng Sơn với cửa Nam Quan đã từng là nơi diễn ra bao nhiêu biến cố
lịch sử đau thương cũng có nhưng phần lớn là oai hùng của dân tộc Việt. Ðây là
nơi xảy ra câu chuyện “Hận Nam Quan” với lời dặn dò của Nguyễn Phi Khanh bảo
Nguyễn Trãi “con phải trở về thay cha báo thù nhà đáp đền nợ nước”, đánh dấu
việc Nguyễn Trãi gạt nước mắt nghe theo lời cha đau đớn quay về thao luyện binh
tướng phò tá Bình Ðịnh Vương dành lại độc lập cho xứ sở. Bao nhiêu binh tướng
kiêu hùng của Trung Quốc đã xông vào cửa ải nầy qua dày xéo lãnh thổ Việt, rồi
cũng bao nhiêu binh tướng đó mua lấy thất bại chua cay hoặc bỏ thây trên quê
người hoặc nhục nhã xác xơ chạy trối chết qua cửa nầy về Trung Quốc như Thoát
Hoan (nhà Nguyên), như Liễu Thăng (nhà Minh), như Tôn Sĩ Nghị (nhà Thanh).
Tiếc
thay! Lạng Sơn ngày nay phải chứng kiến một cảnh tượng đau lòng: cửa Nam Quan
không còn nằm ngay trên biên giới của tỉnh này và tỉnh Quảng Tây nữa, nó đã lùi
xa vào phần đất của Trung Hoa. Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Liêm.” (http://www.quocgiahanhchanh.com/tuainamquan.htm)
Với
những sự kiện rõ ràng đã ghi trong lịch sử như thế, Ải Nam Quan nguyên thủy đã
thực sự bị Tầu chiếm mất. Người Việt còn tinh thần yêu nước, kính trọng Tổ
Tiên, ngưỡng mộ và ghi ơn những chiến sĩ đã bỏ thân mình mà bảo vệ cửa Ải này,
phải tâm nguyện sẽ có một ngày dành lại giang sơn mà Tổ Tiên đã bỏ bao nhiêu
xương máu gầy dựng. Nếu chỉ an tâm hưởng nhàn, quên nhiệm vụ quan trọng này,
thì sẽ mang tội với Tổ Tiên, nếu không muốn được coi là kẻ phản bội Tổ Quốc.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.