Viết
lách bao giờ cũng là một công việc cô đơn. Cực kỳ cô đơn. Có người còn cho đó
là một việc làm cô đơn nhất. Giống như những người giữ hải đăng ngoài biển. Một
mình. Hình ảnh tiêu biểu nhất của các nhà văn và nhà thơ, khi sáng tác, là hình
ảnh, về không gian, một căn phòng khép kín hoặc một chiếc bàn trong góc khuất;
về thời gian, thường là ban đêm, thậm chí, trong khuya khoắt. Một mình. Chung
quanh hoàn toàn im ắng. Có người, dễ tính hơn, có thể viết ở chỗ làm, trong
quán cà phê hay trên xe lửa, nhưng những lúc ấy, họ vẫn phải thu mình lại, tách
biệt hẳn với thế giới bên ngoài, lắng vào trong, chỉ chạy đuổi theo trí tưởng
tượng và tư tưởng của mình, nghe ngóng từng xao động nho nhỏ, khẽ nhàng và tế
vi trong chính tâm hồn của mình. Như vậy, ngay ở những chỗ đông người nhất, tập
nập nhất, ồn ào nhất, họ cũng vẫn cô đơn.
Dĩ nhiên, trong đời sống hàng ngày, với tư cách một con người hoặc một công dân, người cầm bút vẫn phải giao tiếp với người khác, từ gia đình đến xã hội. Như mọi người khác. Nhưng với tư cách một người cầm bút, lúc sáng tác, hắn có một thế giới riêng, thế giới bên trong của hắn, ở đó, không có cửa ngõ nào thông ra bên ngoài. Thế giới bên ngoài cung cấp cho hắn những hiểu biết, kinh nghiệm, hình ảnh và nhân vật, nhưng chỉ ở thế giới bên trong, hắn mới bắt gặp tư tưởng, cảm xúc và giọng điệu, ba yếu tố làm cho hắn trở thành một nhà văn hay một nhà thơ. Thế giới bên ngoài có thể giúp hắn trở thành trí thức uyên bác hay lịch lãm, nhưng chỉ với thế giới bên trong, hắn mới có thể trở thành một nghệ sĩ sâu sắc và độc đáo. Hắn là kẻ gieo hạt bên ngoài nhưng lại gặt hái từ bên trong. Bên ngoài, hắn nhặt nhạnh và gom góp của cải; nhưng chỉ với những gì được tìm thấy từ bên trong, hắn mới trở thành giàu có. Ở cái cõi bên trong ấy, hắn hoàn toàn một mình. Cô đơn và cô độc.
Dĩ nhiên, trong đời sống hàng ngày, với tư cách một con người hoặc một công dân, người cầm bút vẫn phải giao tiếp với người khác, từ gia đình đến xã hội. Như mọi người khác. Nhưng với tư cách một người cầm bút, lúc sáng tác, hắn có một thế giới riêng, thế giới bên trong của hắn, ở đó, không có cửa ngõ nào thông ra bên ngoài. Thế giới bên ngoài cung cấp cho hắn những hiểu biết, kinh nghiệm, hình ảnh và nhân vật, nhưng chỉ ở thế giới bên trong, hắn mới bắt gặp tư tưởng, cảm xúc và giọng điệu, ba yếu tố làm cho hắn trở thành một nhà văn hay một nhà thơ. Thế giới bên ngoài có thể giúp hắn trở thành trí thức uyên bác hay lịch lãm, nhưng chỉ với thế giới bên trong, hắn mới có thể trở thành một nghệ sĩ sâu sắc và độc đáo. Hắn là kẻ gieo hạt bên ngoài nhưng lại gặt hái từ bên trong. Bên ngoài, hắn nhặt nhạnh và gom góp của cải; nhưng chỉ với những gì được tìm thấy từ bên trong, hắn mới trở thành giàu có. Ở cái cõi bên trong ấy, hắn hoàn toàn một mình. Cô đơn và cô độc.
Số phận của người cầm bút là số phận cô đơn. Trải qua mấy ngàn năm, điều kiện sáng tác và phổ biến tác phẩm có thể thay đổi, hơn nữa, với đà tiến bộ của khoa học kỹ thuật, thay đổi thật nhanh, nhưng cái số phận cô đơn ấy, từ Homer và Khuất Nguyên đến tận ngày nay, không hề thay đổi. Ở đâu và thời nào, chọn cầm bút cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận cô đơn. Bàn về sáng tác, ý kiến mỗi người một khác, có người đứng (Hemingway, Virginia Woolf), có người ngồi (phần đông), có người nằm (Marcel Proust, James Joyce,Truman Capote); có người viết tay, có người thích gõ rào rào trên bàn máy đánh chữ hay bàn phím computer; có người viết nhanh (Alexandre Dumas cha, Jack London, William Golding, Anthony Trollope, Stephen King), có người viết chậm (James Joyce, Dorothy Parker); có người cần cà phê để tỉnh táo (Voltaire và Balzac – tương truyền mỗi người uống khoảng từ 40 đến 50 ly cà phê mỗi ngày!), có người uống rượu để tìm cảm hứng (Lý Bạch, William Faulkner, Raymond Carver, Charles Bukowski, Edgar Allan Poe, Jack Kerouac, F. Scott Fitzgerald), nhưng hầu như ai cũng giống nhau ở một điểm: tất cả đều xem sự cô đơn như điều kiện, thậm chí, yếu tính của sáng tác. Sử gia Edward Gibbon có một câu nói nổi tiếng: “Sự đối thoại làm tăng hiểu biết nhưng chính sự đơn độc mới là ngôi trường của các thiên tài.”Johann Wolfgang von Goethe cũng có câu nói tương tự: “Người ta có thể được giáo dục trong xã hội, nhưng người ta chỉ được gợi hứng trong sự đơn độc.” Nói chung về nghệ thuật, Picasso nhận định: “Không có sự đơn độc lớn sẽ không có một tác phẩm nghiêm túc nào được ra đời”.
Ở trên, tôi có viết: nhà văn hay nhà thơ không nghe được tiếng vỗ tay. Dĩ nhiên, trong cuộc sống, ở những buổi nói chuyện hay đọc thơ, họ cũng có thể nhận được những tiếng vỗ tay cổ vũ của người nghe. Nhưng đó là một trường hợp khác: Họ được vỗ tay vì bài nói hay giọng đọc chứ không phải vì các bài viết vốn là nơi chứa đựng những tinh hoa sâu thẳm nhất của họ. Nói cách khác, họ được vỗ tay ở cái phần kém cỏi nhất của họ: Nói. Không có nhà văn hay nhà thơ tài hoa nào có thể nói hay hơn những gì họ viết. Cái được nói, dù mạch lạc, lưu loát hay dí dỏm đến mấy, cũng chỉ là một bãi quặng. Chỉ trong cái viết mới có vàng đã được tinh chế. Bởi vậy, trừ các nhà văn và nhà thơ bình dân, hầu như không có người cầm bút thực sự nào có thể thấy thỏa mãn với những tràng pháo tay của người nghe: Điều họ cần nhất là những phản hồi của người đọc.
Người đọc khác với người nghe.
May, quan hệ giữa những kẻ cô đơn ấy lại có thể là một thứ quan hệ sâu sắc và bền bỉ hiếm thấy, nếu không muốn nói là không bao giờ thấy, trong các loại hình nghệ thuật khác. Không có một bức tranh, một bức tượng hay một bản nhạc nào có thể làm thay đổi cách suy nghĩ hay cách sống của một con người. Nhưng với sách thì có. Đã có nhiều người nói, thậm chí, xuất bản những cuốn sách mang nhan đề “Những cuốn sách làm thay đổi thế giới”. Thánh Kinh, Coran, Những bài giảng của Đức Phật, Luận ngữ, Đạo đức kinh, những cuốn sách về dân chủ của Alexis de Tocqueville, về tự do của John Stuart Mill, về pháp chế của Montesquieu, về chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx, về độc tài của George Orwell, về chính trị của Niccolo Michiavelli, về phân tâm học của Sigmund Freud, về triết học của Nietzsche, v.v. đã làm thay đổi thế giới.
Thế giới còn thay đổi được, huống gì là từng cá nhân.
Mà không phải chỉ trong quan hệ giữa tác giả với độc giả mới có tình bạn. Giữa các tác giả với nhau cũng có tình bạn. Chúng ta thường nói đến bạn văn hay bạn thơ, nhưng không ai nói đến bạn vẽ, bạn đàn hay bạn hát; bạn họa hay bạn nhạc. Trong các loại hình nghệ thuật, hầu như chỉ có trong văn chương là có những tình bạn khắng khít, sâu đậm và lâu dài. Rất nhiều tình bạn đã đi vào lịch sử và trở thành giai thoại. Trong lãnh vực hội họa hay âm nhạc, tình bạn giữa các văn nghệ sĩ với nhau, nếu có, cũng chỉ là họa hoằn. Nhà văn Gertrude Stein có lần nhận xét là Picasso có rất ít, cực ít, bạn bè trong giới họa sĩ. Bạn của ông toàn là các nhà văn và các nhà thơ. Nhìn vào giới văn nghệ sĩ Việt
Chính tình bạn sâu đậm giữa các tác giả và độc giả cũng như giữa các tác giả với nhau đã làm cho công việc viết lách bớt đi chút cô đơn và hiu quạnh.
Cũng đỡ.
***
Chú thích:
Bài trên, tôi viết lại từ bài nói chuyện trong buổi ra mắt 3 cuốn sách mới của tôi (Phản tỉnh và Phản biện; Văn học Việt Nam tại Úc: Chính trị và thi pháp của lưu vong; và Thơ Lê Văn Tài) tại giảng đường Đại học Victoria ở Melbourne, Úc vào chiều Chủ nhật 16/2/2014. Hôm ấy, sách không đủ cung cấp cho những người tham dự. Với những người ấy, cũng như với bạn đọc ở xa, nếu muốn, có thể mua online tại Người Việt Shop, hoặc trên www.amazon.com.
Nguyễn
Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.