Giới
thiệu: Trả lời báo New York Times đầu năm nay, Tổng thống Philippines
Benigno Aquino phát biểu “Lãnh đạo Trung Quốc giống như Hitler”. Trong
hai ngày qua các báo Trung Cộng điên tiết phản công những nhận xét chính xác
của Tổng thống Philippines Benigno S. Aquino III khi ông cho rằng “các lãnh đạo
Trung Cộng chẳng khác gì Hitler” và nhắc nhở thế giới biết bài học lịch sử Sudetenland “Thế giới phải làm việc này, quý vị có nhớ vùng
Sudetenland đã được nhượng cho Hitler để cố tránh Thế chiến II hay
không?”
Chủ
nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán của Đặng Tiểu Bình còn tác hại rộng lớn, không
chỉ Tây Tạng, Nội Mông, Tân Cương, các quốc gia Đông Nam Á như Philippines,
Việt Nam mà còn lan rộng sang tận châu Phi. Ký giả Jeff Jacoby của Boston Globe
vào tháng 2,1997 phân tích các tội ác họ Đặng và tố cáo khuynh hướng chủ hòa từ
Chamberlain đến Kissinger chỉ làm cho sự chịu đựng của nhân loại ngày thêm nặng
nề.
Nhượng
bộ Sudetenland cho Hitler, như Tổng thống
Philippine, là một sai lầm nghiêm trọng của Anh, Pháp và Tiệp, và sai lầm này
đã dẫn đến Thế Chiến II. Khi Hitler tấn công Ba Lan, hai nước Anh và Pháp tuyên
chuyến với Đức ngay nhưng đã trễ. Đây là bài học lớn cho nhân loại. Chúng tôi
xin giới thiệu lại bài viết Hiểm họa Trung Quốc và bài học Tiệp Khắc của tác
giả Trần Trung Đạo phân tích một cách chi tiết biến cố Sudetenland và việc
Trung Quốc đang áp dụng một chính sách tương tự đối với các quốc gia đang nằm
trong vị trí chiến lược ở Đông Nam Á.
Hiểm họa Trung Quốc và bài
học Tiệp Khắc
Áo
và Tiệp Khắc là hai quốc gia bị Đức cưỡng chiếm đầu tiên ngay cả trước khi Thế
chiến thứ hai bùng nổ. Trong lúc Đức chiếm Áo không gây nhiều phản ứng vì Áo có
nhiều liên hệ với Đức về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và chính bản thân Hitler
vốn là người Áo, việc cưỡng chiếm Tiệp Khắc là một biến cố lớn vì Tiệp Khắc là
một nước độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và được xem là một trong số mười
cường quốc châu Âu thời đó.
Suốt
thời gian dài hơn sáu năm dưới ách thống trị của Đức Quốc Xã, nhân dân Tiệp đã
chịu đựng vô số thương vong, thiệt hại. Hàng trăm ngàn người bị giết và hàng
trăm ngàn người khác bị đày ải trong các trại tập trung. Thế nhưng phải chăng
ngày đó Tiệp Khắc yếu đến mức không bắn được phát súng nào?
Không.
Trước Thế chiến thứ hai, thừa hưởng các thành tựu kỹ thuật của thời đế quốc Áo
Hung, Tiệp Khắc là một trong số ít quốc gia có một quân đội đông đảo nhất và
được trang bị tối tân nhất châu Âu. Việc Tiệp Khắc rơi vào tay Đức nhẹ nhàng
như chiếc lá mùa thu phát xuất từ ba lý do chính. Hai lý do khách quan:
(1)
Bành trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức,
(2) Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu
Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3)
Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm
tôi mọi cho ngoại bang và giới lãnh đạo chính phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ
quyền đất nước
Bành
trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức
Sau
giai đoạn cách mạng 1848, Đức trở thành cường quốc. Sức mạnh của Đức thể hiện
không chỉ trong các lãnh vực kinh tế, quân sự, dân số mà cả khoa học. Tổng số
giải Nobel các khoa học gia Đức được tặng thưởng trong giai đoạn 47 năm tồn tại
nhiều hơn tổng số giải Nobel của các khoa học gia Anh, Pháp, Nga và Mỹ cộng
lại. Năm 1871, Đế Quốc Đức bao gồm 27 khu vực, dưới sự lãnh đạo của Otto von
Bismarck đã vượt qua đế quốc Anh. Giống như mọi đế quốc khác trong lịch sử, để
tiếp tục lớn mạnh cần phải có tài nguyên thiên nhiên.
Otto von Bismarck
Đức
là quốc gia nằm ngay giữa châu Âu và về mặt địa lý chính trị, suốt nhiều thế
kỷ, các chế độ quân chủ Đức cũng chủ trương các quốc gia phía Đông trong đó có
Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary là hàng rào an ninh của Đức để đương đầu với hai
nước lớn khác là Pháp và Nga.
Sau
khi sáp nhập Áo vào tháng Ba năm 1938 không cần dùng đến võ lực, Hitler tập
trung vào chiến lược chiếm Tiệp Khắc bất chấp sự chống đối của nhiều tướng lãnh
cao cấp trong đó có tướng Ludwig Beck, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Đức. Bản
thân của Hitler cũng đánh giá Tiệp rất cao nên không dám công khai đưa quân
vượt biên giới xâm lăng quốc gia này. Vì vùng Sudetenland có đông dân Đức và có
nguồn dự trữ nguyên liệu lớn nhất của Tiệp Khắc, Hitler nghĩ đến việc chiếm
vùng Sudetenland trước và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn
bộ Tiệp Khắc.
Nevill Chamberlain
Chính
sách nhân nhượng (appeasement policy) của các các lãnh đạo Anh, Pháp đứng đầu
là Thủ tướng Nevill Chamberlain đã “khuyến khích” Đức chiếm Tiệp Khắc.
Sau
Thế chiến thứ nhất, dù thắng hay bại, các quốc gia đều phải chịu đựng một thời
kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng. Khuynh hướng chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt
chính trị tại các cường quốc dân chủ và lãnh tụ hàng đầu của khuynh hướng này
là thủ tướng Anh, Nevill Chamberlain. Thủ tướng Nevill Chamberlain tìm cách hòa
giải mối thù địch với Đức. Khi Đức sáp nhập Áo, Chamberlain không có phản ứng
cụ thể nào.
Khi
Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập vùng Sudetenlan của Tiệp Khắc đang có
hơn ba triệu người gốc Đức, vào lãnh thổ Đức, vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp
Khắc có liên minh quân sự với Pháp và Pháp có liên minh quân sự với Anh. Thủ
tướng Anh Nevill Chamberlain qua trung gian của Sir Horace Wilson chuẩn bị đàm
phán với Đức và qua trung gian của Lord Runciman thuyết phục Tiệp Khắc nhượng
bộ. Trong lúc Hitler thông đồng với các nước nhỏ như Hungary
và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên bố chủ trương
trung lập của Mỹ về tranh chấp Sudetenland .
Nevill Chamberlain
Ngày
15 tháng Chín năm 1938, Thủ tướng Nevill Chamberlain bay sang Đức để thương
thuyết với Hitler. Các cuộc thương thuyết giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9
năm 1939, thỏa hiệp Munich được ký kết giữa Đức,
Anh, Pháp và Ý, trong đó, cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland
trù phú và chiến lược vào lãnh thổ Đức.
Tiệp
Khắc không được mời tham dự hội nghị và chỉ được Anh Pháp thông báo kết quả.
Chính phủ Tiệp nghĩ rằng Tiệp Khắc không có hy vọng gì thắng được Đức bằng sức
mạnh của riêng mình, đã đồng ý với nội dung của thỏa hiệp Munich . Theo thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm
Keitel được cử vào chức thống đốc quân sự vùng Sudetenland .
Những người dân Tiệp không phải gốc Đức phải rời Sudetenland
trong vòng 10 ngày và không được mang theo bất cứ một món sở hữu nào. Câu phản
bội Tiệp Khắc để chỉ sự phản bội của đồng minh đối với Tiệp ra đời từ đó.
Mất
Sudetenland, Tiệp Khắc không chỉ bỏ trống biên giới chiến lược phía nam mà còn
mất 70% dự trữ sắt thép, 70% điện và 3 triệu công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là một thành quả
ngoại giao lớn của Nevill Chamberlain, đối với Hitler lại là một bước lùi. Mục
tiêu của Hitler không phải chỉ chiếm vùng Sudetenland
mà cả nước Tiệp như Wilson Churchill tiên đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt
chiếm các vùng Bohemia , Moravia và phần còn lại của Tiệp Khắc.
Cả
hai lý do trên không thể làm Tiệp Khắc mất một cách nhanh chóng nhưng chính sâu
mọt và phản bội ngay trong lòng nước Tiệp và một chính phủ phân hóa, yếu kém,
thiếu quyết tâm mới là những lý do chính làm tan rã Tiệp Khắc.
Rất
nhiều sâu mọt trong nội bộ Tiệp và đứng đầu là Konrad Henlein lãnh đạo của đảng
Sudeten gốc Đức
Konrad Henlein một thầy giáo bậc trung học, lúc đó đang hoạt động dưới danh
nghĩa đảng Sudeten quy tụ đa số dân Tiệp gốc Đức. Konrad Henlein sinh tại Bohemia,
Tiệp Khắc có cha là người Đức và mẹ là người Czech. Đảng Sudeten
của Konrad Henlein thông đồng với đảng Quốc Xã Đức và được đảng này tài trợ và
huấn luyện. Mỗi tháng đảng Sudeten nhận 15
ngàn Đức Mã để trang trải các chi phí hoạt động. Ngày 28 tháng Ba năm 1938,
Hiter gọi Konrad Henlein sang Đức và đích thân ra chỉ thị cho tên Tiệp gian này
phải đưa ra những điều kiện mà Tiệp Khắc không thể thỏa mãn được. Mặc khác,
Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã, tung một chiến dịch
tuyên truyền ồ ạt về việc chính phủ Tiệp bạc đãi, đàn áp dân gốc Đức trong vùng
Sudetenlan và xúi dục người dân Tiệp gốc Đức đứng lên đòi quyền tự trị.
Về
lại Tiệp, Tiệp gian Konrad Henlein đòi chính phủ Tiệp phải để vùng Sudetenlan
hoàn toàn tự trị, thay đổi chính sách đối ngoại của chính phủ Tiệp và toàn
quyền phổ biến lý thuyết Quốc Xã. Dĩ nhiên, đòi hỏi tự trị còn có thể đàm phán
được nhưng việc tự do tuyên truyền tư tưởng Quốc Xã khó có thể chấp nhận. Khi
đàm phán bắt đầu, Tiệp gian Konrad Henlein và đảng của y lại tạo nhiều xáo trộn
bạo động trong vùng và tiếp tục làm khó dễ chính phủ trung ương cho đến khi
hiệp ước Munich
được ký kết.
Ngày
1 tháng Mười năm 1938, các đơn vị tiền phương của quân đội Đức vượt qua biên
giới Tiệp giữa tiếng hò reo ủng hộ của các đảng viên đảng Sudeten ,
và cũng trong lúc đó hàng chục sư đoàn Tiệp được trang bị đầy đủ được chính phủ
ra lịnh rút lui. Phía sau đoàn quân Đức là các đơn vị mật vụ Gestapo và lực
lượng anh ninh SS. Chỉ trong thời gian ngắn 10 ngàn người dân Tiệp, kể cả dân
nói tiếng Đức nhưng chống Hitler, bị đày vào các trại tập trung vừa mới xây ở Sudetenland .
Konrad Henlein gia nhập lực lượng an ninh Đức và tham gia vào đảng Quốc Xã. Mặc dù sinh ra, lớn lên trên đất Tiệp, Konrad Henlein đã góp phần quan trọng trong việc rước voi Đức giày lên Tiệp Khắc. Y được thưởng nhiều chức vụ và được cho phép làm công dân Đức. Sau khi Tiệp Khắc được đồng minh giải phóng, tên Tiệp gian phản quốc Konrad Henlein bị bắt và y đã tự sát bằng cách cắt gân máu ở cổ tay.
Emil Hacha
Kẻ
phản bội thứ hai là tổng thống bù nhìn Emil Hacha. Sau khi Edvard Benes, tổng
thống thứ hai của Tiệp Khắc từ chức, tân tổng thống Emil Hacha là một người nhu
nhược. Buổi tối ngày 11 tháng Ba năm 1939, Hitler cho triệu Hacha đến Bá Linh
và thông báo cho ý định chiếm toàn bộ Tiệp Khắc bằng võ lực và hứa nếu Hacha
chịu hợp tác, Tiệp Khắc sẽ được hưởng quyền tự trị rộng rãi còn nếu nghịch sẽ
bị đoàn quân Hitler tấn công Tiệp bằng mọi phương tiện trong đó có cả việc
không quân của Đức cày nát thủ đô Prague. Emil Hacha quy thuận Hitler. Dưới
thời Đức Quốc Xã chiếm đóng y được giữ chức vụ tổng thống bù nhìn nhưng buộc
phải tuyên thệ trung thành trước Hitler. Mặc dù có nhiều tài liệu cho thấy Emil
Hacha trong thời gian phục vụ Hitler cũng lén lút giúp cho phong trào kháng
chiến chống Đức thuộc chính phủ lưu vong của Edvard Benes nhưng công không đủ
để chuộc tội cho y. Sau khi Prague được giải phóng vào tháng Năm năm 1945, Emil
Hacha bị bắt và chết hơn hai tháng sau đó trong hoàn cảnh bí mật. Y được chôn
trong một ngôi mộ không đề bia tại nghĩa trang Vinohrady. Hiện nay, tại nghĩa
trang Vinohrady có một tấm bảng ghi dấu nơi chôn của Emil Hacha.
Jozef Tiso
Jozef
Tiso là một kẻ phản quốc đội lốt tôn giáo. Mặc dù thụ phong linh mục nhưng y
cũng là một trong những đảng viên nòng cốt của đảng Nhân Dân Slovak. Lợi dụng
sự suy yếu của Tiệp Khắc sau hiệp ước Munich, đảng Nhân Dân Slovak do Tiso lãnh
đạo tuyên bố Slovak tự trị trong vòng Tiệp Khắc. Vào 13 tháng Ba năm 1939,
giống như vừa đe dọa Emil Hacha vài hôm trước đó, Hitler triệu Jozef Tiso đến
Bá Linh và buộc y phải tuyên bố Slovak độc lập, tách rời khỏi Tiệp Khắc, nếu
không Hitler sẽ thúc giục Hungary và Ba Lan chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại
của Slovakia. Jozef Tiso tuân phục Hitler và trở nên một cộng tác viên trung
thành cho chế độ Quốc Xã. Từ năm 1939 đến năm 1945, Tiso là tổng thống bù nhìn
Slovakia chư hầu của Đức. Đảng Nhân Dân Slovak do y lãnh đạo liên kết chặt chẽ
với đảng Quốc Xã Đức và chia sẻ quan điểm diệt Do Thái. Khi hồng quân Liên Xô
tiến vào chiếm Chính phủ Tiệp Khắc nhu nhược không quyết tâm bảo vệ đất nước. Phân hóa và thiển cận trong thành phần lãnh đạo của hai sắc dân Slovak và Czecho trong chính phủ Tiệp đã làm thượng tầng kiến trúc lãnh đạo sụp đổ nhanh chóng.
Tiệp Khắc trong giai đoạn năm 1938-1939 đứng trước những khó khăn và áp lực quá lớn không những từ quốc tế mà ngay cả tại trong nội bộ Tiệp, nhưng thay vì đoàn kết để đương đầu với ngoại xâm, các sắc dân Tiệp đã phân hóa, chia rẽ và tiếp tay làm yếu khả năng đối đầu với Đức.
Nếu
đánh nhau với Đức trong một cuộc chiến tranh quy ước, chưa chắc Tiệp đã thua.
Mà dù có thua, Tiệp Khắc cũng kéo dài cuộc chiến được một hai năm đủ thời gian
cho quốc tế can thiệp hay tìm cách lôi kéo các nước châu Âu vào ván cờ sinh tử.
Khi tràn ngập Tiệp Khắc vào tháng Ba năm 1939, Đức tịch thu của Tiệp 469 xe
tăng, 1500 phi cơ chiến đấu đủ loại, 43 ngàn súng máy và nhiều triệu súng
trường. Số lượng vũ khí đó Đức đã phải tốn hàng năm mới sản xuất được.
Tiệp
Khắc, một quốc gia có điều kiện kỹ thuật tiên tiến nhất châu Âu và từng là một
phần của đế quốc Áo Hung hùng mạnh đã bị Hitler xóa tên khỏi bản đồ thế giới
không tốn một viên đạn. Với một quân lực cả triệu người và phương tiện đầy đủ
nhưng chỉ vì sự yếu hèn của cấp lãnh đạo, Tiệp Khắc trở thành đỉa thịt bò tươi
trong bữa cơm chiều của nhiều khách lạ.
Sau
khi Tiệp bị Hitler cưỡng chiếm, hàng ngàn người dân Tiệp yêu nước phải tự phát
rút vào chiến tranh du kích chỉ bằng vài tạc đạn và vài khẩu súng ngắn. Nguồn
tiếp tế quá xa và kho súng đạn khổng lồ đã bị tịch thu, họ đã phải chiến đấu
trong điều kiện hết sức khó khăn. Hàng trăm ngàn người Tiệp đã chết dưới bàn
tay sắt của tử thần SS Reinhard Heydrich.
Tướng
SS Reinhard Heydrich, cai trị Bohemia và Moravia (vùng đất Tiệp sau khi sáp
nhập vào Đức) được các sử gia đánh giá là tên tướng độc ác nhất trong hàng
tướng lãnh công an mật vụ SS Đức. Y là một trong những kiến trúc sư của kế
hoạch tiêu diệt dân Do Thái Holocaust. Hitler ca ngợi Heydrich là “con người có
trái tim bằng sắt”. Y bị kháng chiến quân Tiệp ám sát tại Prague vào cuối tháng Năm năm 1942. Đức trả
thù tàn bạo. Hai làng Lidice và Lezaky, tình
nghi che giấu kháng chiến quân, bị đốt thành tro, tất cả đàn ông đều bị bắn
chết, chỉ còn một ít phụ nữ và trẻ em bị đày vào các trại tập trung.
Sự
chịu đựng của nhân dân Tiệp đã để lại nhiều bài học cho Việt Nam khi đương
đầu với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
Tương
tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc chủ trương bành trướng xuống
vùng Đông Á
Như
đã trình bày trong bài “Hiểm họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ”, vì các lý
do an ninh, chính trị, kinh tế, Trung Quốc phải tìm mọi cách khống chế biển
Đông. Hai nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây từ bên
ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc. Nhìn quanh, họ chỉ
thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến
Nhật Bản, Đài Loan , Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác
nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc,
không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Sự lệ thuộc về chính
trị của Việt Nam vào Trung
Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây
chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước.
Tuy nhiên, khác với Đức Quốc Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công toàn lực như Hitler chuẩn bị cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần đất, từng ngọn núi và từng hải lý của ViệtNam .
Tuy nhiên, khác với Đức Quốc Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công toàn lực như Hitler chuẩn bị cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần đất, từng ngọn núi và từng hải lý của Việt
Nắm
được yếu điểm của CSVN, trong lúc tiếp tục phát triển kinh tế, mở rộng ngoại
giao với hầu hết các quốc gia từ năm 1978, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục phát
động chiến tranh xoi mòn biên giới Việt Nam như trận Cao Bằng năm 1980, Lạng
Sơn và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên năm 1984, Lão Sơn Hà Giang năm
1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm 1986. Trên mặt biển Trung Quốc tiếp
tục xâm phạm chủ quyền Việt Nam, bắn thủng ghe tàu, thành lập thành phố Tam Sa,
đưa hàng ngàn tàu đánh cá ra khơi, tàn sát ngư dân Việt Nam.
Lãnh
đạo CS Trung Quốc biết những hành động lấn ép đó không đủ mạnh, đủ lớn để làm
quốc tế lưu tâm. Không một Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc nào rảnh rỗi để bàn
chuyện vài chiếc ghe đánh cá của ngư dân Việt Nam
bị “tàu lạ” húc ngoài Quảng Ngãi hay đặt vấn đề tại sao các tàu đánh cá Trung
Quốc cứ tiếp tục thả lưới trong vùng biển Việt Nam . Những sự kiện ghe tàu đó đối
với các cường quốc là chuyện vặt nhưng với một nước nhỏ như Việt Nam nơi có
nhiều triệu dân gắn liền với ngư nghiệp lại là chuyện lớn. Đặc tính hèn hạ, nhỏ
mọn đó của Trung Quốc là sản phẩm của chế độ độc tài CS và đừng ai hy vọng gì
các đặc tính đó thay đổi một khi chế độ sinh ra chúng còn tồn tại.
Đàm
phán với Trung Quốc ư? Đàm phán đa phương quốc tế Trung Quốc không tham dự
nhưng đàm phán song phương là rơi vào chiếc bẫy của Trung Quốc. Nếu ai theo dõi
chuyện Trung Quốc và Liên Xô tranh cãi nhau về chủ quyền của các đảo Trân Bảo,
Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri sẽ thấy. Các phiên họp tranh
cãi chủ quyền kéo dài tới 20 năm, từ thập niên 1970 cho đến 1990 nhưng không
đem lại kết quả nào. Mỗi lần có một cuộc họp giữa hai nước, phái đoàn Trung
Quốc chở theo một toa xe lửa chứa đầy tài liệu và đồ vật để chứng minh chủ
quyền Trung Quốc trên các đảo này. Trung Quốc biết dù chở cả xe bằng chứng cũng
chưa hẳn thuyết phục được Liên Xô nhưng chỉ muốn kéo dài thời gian đàm phán để
chờ đợi thời cơ.
Tương tự như Hitler, lãnh
đạo CS Trung Quốc lợi dụng chính sách ngoại giao mềm của Mỹ.
Trong bài viết Tranh chấp Mỹ – Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước, tôi có dịp trình bày chính sách Mỹ hiện nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời Chiến tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm lẫn nghĩ rằng hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả neo ngoài khơi Đà Nẵng là để bảo vệ ViệtNam .
Thật ra, cả Trung Quốc và Mỹ đều biết dù áp dụng chính sách nào hay dù có thái
độ nào, xung đột võ trang giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới có phụ thuộc
quá sâu, quá phức tạp về kinh tế không thể xảy ra trong một giai đoạn ngắn tới
đây.
Trong bài viết Tranh chấp Mỹ – Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước, tôi có dịp trình bày chính sách Mỹ hiện nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời Chiến tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm lẫn nghĩ rằng hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả neo ngoài khơi Đà Nẵng là để bảo vệ Việt
Về
phía Trung Quốc, không giống Đức Quốc Xã cần chiến tranh để phục hồi và phát
triển, Trung Quốc phải đương đầu với hàng loạt khó khăn trên trong cũng như bên
ngoài, việc phát động một cuộc chiến tranh quy mô ở Á châu và Thái Bình Dương
như Hitler đã làm với Tiệp Khắc là một điều giới lãnh đạo CS Trung Quốc không
dám thực hiện. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS Trung Quốc biết họ phải cần nhiều
chục năm kỹ thuật và một ngân sách hải quân khổng lồ mới mong đuổi kịp Mỹ.
Ngoài ra, chủ nghĩa Cộng Sản đã chết, Trung Quốc hiện đang sống nhờ vào chủ
nghĩa dân tộc cực đoan. Thế chiến thứ nhất 1914-1918 dẫn đến tự sụp đổ của Đế
Quốc Đức, Đế Quốc Áo Hung, Đế Quốc Ottoman đã dạy họ một bài học: Các đế quốc
gây chiến trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan chẳng những không thắng
mà đều tan rã từ bên trong.
Về
phía Mỹ, ngoài các lý do kinh tế, riêng trong lãnh vực quân sự cũng không phải
dễ dàng. Chính phủ Mỹ trong lúc muốn duy trì ảnh hưởng trong vùng, cũng không
muốn bị cuốn vào các xung đột mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc đối đầu với chủ
nghĩa dân tộc như trường hợp Trung Quốc và Việt Nam . Tháng Giêng 2011, Tổng thống
Barack Obama trải thảm đỏ tiếp đón Chủ tịch Trung Cộng Hồ Cẩm Đào như quốc
khách với 21 phát đại bác chào mừng. Trong buổi tiếp tân, TT Obama ca ngợi “sự
hợp tác tốt đẹp giữa hai nước”. Khi trả lời buổi phỏng vấn dành cho tờ Wall
Street Journal, Hồ Cẩm Đào công nhận sự quan trọng trong quan hệ tốt giữa Trung
Quốc và Hòa Kỳ. Họ Hồ cũng nhấn mạnh đến việc hai quốc gia phải “hành động phù
hợp với quyền lợi căn bản của nhân dân hai nước, và tôn trọng quyền lợi chung
của hòa bình và phát triển thế giới”.
Dân
biểu Ileana Ros-Lehtinen, thuộc đảng Cộng Hòa, Chủ tịch Ủy ban Ngoại Giao Hạ
Viện trong một văn bản công bố cho báo chí sau đó, đã nghiêm khắc phê bình Trung
Quốc không xứng đáng là một cường quốc vì nhiều lý do và một trong những lý do,
Trung Quốc đã ngang nhiên xem Biển Đông như là “quyền lợi chính” và xem thường
quyền hàng hải và lãnh thổ của các quốc gia vùng Đông Nam Á. Các lãnh đạo Cộng
Hòa cũng tố cáo TT Obama đã thực thi chính sách “Nhân nhượng” của Nevill
Chamberlain để đối phó với Trung Quốc. Dĩ nhiên, TT Barack Obama phủ nhận những
lời kết án này.
Tương
tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc nắm chắc các thành phần lãnh
đạo cam thân làm nô bộc cho ngoại bang và không quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất
nước.
Trung Quốc biết rất rõ tham vọng cố bám vào chiếc ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Chủ trương “hợp tác hỗ tương bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của lãnh đạo CSVN chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền che đậy sự sợ hãi trước đàn anh CS Trung Quốc. Ngay cả các cường quốc Anh, Nhật, Pháp cũng không chủ trương như vậy đừng nói chi là những nước mang số phận sân sau như Việt
Quan
hệ Trung Quốc và Việt Nam
không giống như quan hệ giữa Mỹ và Philippine hay Mỹ và Nam Hàn. Giới lãnh đạo
CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chính sách trước khi
đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung Quốc. CS Trung Quốc và CS Việt Nam chia sẻ
nhau một lịch sử lâu dài từ ngày đảng Cộng sản hai nước được thành lập. Hai
đảng gắn bó về cả vật chất lẫn tinh thần. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ trung tâm
và hình thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực thông qua đấu tranh võ
trang và giải quyết vấn đề bằng chiến tranh” là tư tưởng chỉ đạo của đảng CSVN
trong khi vạch định đường lối suốt hai cuộc chiến. Năm 1950, Trung Quốc là nước
đầu tiên công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cả hai nước đã thừa nhận sự đóng
góp của và người của Trung Quốc vào mục đích thiết lập chế độ Cộng sản tại Việt
Nam .
Nợ máu xương chồng chất. Tuy không dính dáng gì đến dân tộc Việt Nam nhưng nhân
dân Việt Nam đã và đang phải trả bằng máu của bao nhiêu thế hệ từ trước năm
1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả hết.
Bài học từ chủ nghĩa dân
tộc cực đoan
Bài
học lớn nhất mà nhân loại học được từ Thế chiến thứ hai là sự thụ động, tiêu
cực của con người trước hiểm họa của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những
kẻ chịu trách nhiệm cho cái chết của 70 triệu người không chỉ là Adolf Hitler,
Benito Mussolini và Kideki Tojo nhưng còn là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain
và Tổng thống Pháp Édouard Daladier. Chính người dân Đức đã bỏ phiếu cho Hitler
và người dân Anh đã nhảy nhót vui mừng khi lãnh thổ Tiệp rơi vào tay của Đức.
Trong một thời gian ngắn trước Thế chiến thứ hai, không chỉ Đức thôi mà cả nước
yếu kém hơn Tiệp như Ba Lan, Hungary cũng dự phần vào bữa tiệc nấu bằng thịt
xương Tiệp Khắc. Thế chiến thứ hai có thể đã không xảy ra hay xảy ra với mức độ
tác hại thấp hơn nếu số lớn nhân loại ngày đó không thỏa hiệp, không đồng lõa
với cái ác.
Từ
đó để thấy, việc ngăn chận chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc ngày nay phải
là trách nhiệm hàng đầu của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý bởi vì
lịch sử chứng minh chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến chiến tranh ngay cả trong
trường hợp các kẻ chủ trương cực đoan không muốn. Chưa từng có một trường hợp
nào ngược lại. Giới lãnh đạo CS Trung Quốc là những người nhúm lên ngọn lửa dân
tộc cực đoan nhưng lửa cháy mạnh hay yếu tùy thuộc vào nhiều yếu tố có khi
không nằm trong vòng kiểm soát của họ.
Các
chủ trương đồng hóa và diệt chủng các dân tộc yếu thế là phó sản của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan. Từ giai đoạn sau cách mạng Pháp 1789 đến Thế chiến thứ nhất
rồi Thế chiến thứ hai cho tới các cuộc chiến đẫm máu vùng Balkans giữa các nước
thuộc liên bang Nam Tư cũ, máu nhân loại đã đổ liên tục vì chủ nghĩa dân tộc
cực đoan. Sau cực tả là cực hữu, bản đồ thế giới chưa bao giờ thay đổi nhanh
chóng như trong vòng một phần tư thế kỷ vừa qua.
Các
nhà phân tích thường dựa vào hậu quả hơn là tìm hiểu nguyên nhân nên không lấy
làm lạ ít người so sánh Hitler với Đặng Tiểu Bình. Đa số vẫn đánh giá họ Đặng
như một nhà lành đạo CS tiến bộ, mở cửa hiện đại hóa, làm dịu căng thẳng giữa
hai khối. Tuy nhiên, quan điểm của Hitler và Đặng Tiểu Bình có nhiều điểm giống
nhau hơn cả giữa Hitler và Stalin, Hitler và Mussolini hay Hilter và Mao bởi vì
cả hai đã dùng chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện để kích thích “niềm kiêu
hãnh quốc gia”, vẽ lên trong nhận thức con người về “một loại đất nước huy
hoàng tưởng tượng”, làm gia tăng nhất thời sức mạnh kinh tế và tạo áp lực
thường xuyên trên các nước yếu hơn trong vùng.
Nhân
loại nguyền rủa Hitler, kết án Mao và phỉ nhổ Stalin, tuy nhiên, nếu chiến
tranh bùng nổ tại Á Châu, với dân số 1.3 tỉ người mà bầu nhiệt huyết được đun
sôi bằng ngọn lửa hận thù, hậu quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc do
Đặng Tiểu Bình nhóm lên từ năm 1978 sẽ khủng khiếp đến dường nào. Giữa Hitler
và Đặng Tiểu Bình ai tàn ác hơn ai, chưa biết được.
Có
hy vọng nào cho dân tộc Việt Nam ?
Nhìn
lại Việt Nam ,
chưa bao giờ dân tộc lại phải chịu đựng sự phân hóa, chia rẽ trầm trọng như hôm
nay. Một người Việt quan tâm đến tiền đồ dân tộc nào cũng đau lòng nhận ra điều
đó. Tuy nhiên, dù có thể còn khác nhau trong cách trả lời, chúng ta không thể
không đồng ý rằng, để cứu đất nước, trước hết phải tháo gỡ chiếc gông độc tài
chuyên chính ra khỏi cổ người dân và trả lại cho họ những quyền bẩm sinh mà ai
cũng có, đó là quyền làm người, quyền quyết định sinh mệnh của chính mình và
của dân tộc mình. Bởi vì, chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ,
tự chủ, cường thịnh mới mong thắng được chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.
Trần Trung Đạo
Tham
khảo:
-
David Faber, Munich, 1938 Appeasement and World War II, Simon & Schuster,
New York 2009
- William L. Shirer, The Rise and Fall of the Third Reich, 1995
- Mark Mazower, Hitler ‘s Empire, How The Nazis Ruled Europe, The Penguin Press, New York 2008
- Carl K. Savich, Nationalism and War, MarkNews. com, 2008
- Richard J. Evan, The Third Reich in power, The Penguin Press, New York 2005
- History of Germany, Wikipedia, the free encyclopedia
- Interview with Dr. Carroll Quigley, Georgetown University, The Courier, December 12, 1952
- Hitler’s Plan for Eastern Europe, Selections from Janusz Gumkowkski and Kazimierz Leszczynski
- World War II database, Munich Conference and the Annexation of Sudetenland
- Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Woodrow Wilson International Center for Scholars, 2002
- William L. Shirer, The Rise and Fall of the Third Reich, 1995
- Mark Mazower, Hitler ‘s Empire, How The Nazis Ruled Europe, The Penguin Press, New York 2008
- Carl K. Savich, Nationalism and War, MarkNews. com, 2008
- Richard J. Evan, The Third Reich in power, The Penguin Press, New York 2005
- History of Germany, Wikipedia, the free encyclopedia
- Interview with Dr. Carroll Quigley, Georgetown University, The Courier, December 12, 1952
- Hitler’s Plan for Eastern Europe, Selections from Janusz Gumkowkski and Kazimierz Leszczynski
- World War II database, Munich Conference and the Annexation of Sudetenland
- Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Woodrow Wilson International Center for Scholars, 2002
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.