
Thứ Ba ngày
11/9/2001, có 19 kẻ khủng bố Al-Qaeda đã cướp bốn máy bay thương mại tấn công
hàng loạt địa điểm mang tính biểu tượng của nước Mỹ. Trong 102 phút, gần 3.000
người đã thiệt mạng.
Một tháng sau đó,
khoa học gia gốc Việt Dương Nguyệt Ánh nhận được điện thoại từ Lầu Năm Góc, yêu
cầu rút ngắn chương trình chế tạo một loại chất nổ mới là bom áp nhiệt
(thermobaric) dự kiến kéo dài 5 năm thành "làm ngay, làm gấp".
"Tổng thống
George W. Bush khi đó quyết định phải đem quân Mỹ vào A Phú Hãn Afghanistan ngay lập tức để diệt khủng bố," bà Ánh, người được biết với danh xưng The
Bomb Lady (Quý bà Bom), vào thời điểm ấy giữ vai trò lãnh đạo tất cả những
chương trình nghiên cứu và chế tạo chất nổ cho Hải quân Mỹ, nhớ lại.
"Chúng tôi, cả
toán khoa học gia đều hiểu rằng một khi mình phải đốt giai đoạn từ một chương
trình 5 năm xuống còn vài tuần hay vài tháng thì đó là một sự mạo hiểm và xác
xuất thành công sẽ rất thấp," bà Ánh nói với BBC News Tiếng Việt.
"Nhưng khi nghĩ
đến bao nhiêu dân Mỹ đã chết oan trong vụ 11/9, rồi bao nhiêu xương máu lính Mỹ
sắp sửa phải đổ ra ở A Phú Hãn thì tất cả chúng tôi đều quyết tâm phải làm cho
bằng được."
Kết quả là chỉ trong
vòng 67 ngày, bà Ánh cùng đội ngũ khoa học gia đã chế tạo ra 11 quả bom áp nhiệt
đầu tiên BLU-118/B, được Không quân Mỹ sử dụng để xuyên sâu vào những không
gian chật hẹp như hệ thống đường hầm dưới lòng đất mà Al-Qaeda trấn đóng ở Afghanistan.
Đến tháng 6/2025,
khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ra lệnh thả 14 quả bom xuyên boongke
GBU-57 vào ba cơ sở hạt nhân ở Iran, tên tuổi bà Dương Nguyệt Ánh lại được xướng
lên.
Mạng xã hội lan truyền
thông tin cho rằng bà là tác giả của loại bom xuyên phá mà Mỹ vừa thả xuống
Iran và bà đã được Tổng thống Trump tham vấn trước khi ra lệnh tấn công Iran.
Bà Ánh nói rằng loại bom Mỹ thả xuống Iran không phải là công
trình của bà.
Song bà cho biết cả
ba chất nổ, bao gồm hai loại dùng trong bom GBU-57 là AFX-757 của Không quân,
PBXN-114 của Hải quân Mỹ và PBXN-113 dùng trong loại bom áp nhiệt BLU-118/B của
bà, có cùng xuất xứ.
"Đó là chương
trình nghiên cứu chế tạo một loại chất nổ không nhạy mới và vẫn có công suất
cao, được đề xướng bởi các khoa học gia Hải quân từ đầu thập niên 90," bà
cho biết.
"Đến cuối thập
niên 90, khi trở thành người lãnh đạo tất cả các chương trình chế tạo chất nổ
cho Hải quân thì tôi đã có cơ hội để kiện toàn cái kỹ thuật đó."
Hiểu một cách nôm
na, đó là kỹ thuật làm sao để quả bom chỉ nổ sau khi đã lộn vòng ở trên không
nhiều lần, hoặc đã lọt vào trong các mục tiêu ở sâu dưới lòng đất mà vẫn có
công suất cao.
Hành trình tị nạn
sang Mỹ, từ bỏ giấc mơ văn chương để đến với khoa học
Cuối tháng 4/1975, gia đình bà Ánh đã chạy khỏi Việt Nam trên một chiếc trực thăng do chính anh trai của bà - một phi công Việt Nam Cộng hòa - lái ngay trước khi khi Sài Gòn thất thủ.
Chiếc trực thăng đáp
xuống được một tàu hải quân của Việt Nam Cộng hòa ở ngoài khơi, gia đình họ
cùng những người tị nạn lênh đênh trên biển vài ngày thì được phép cập vào căn
cứ hải quân của Mỹ ở Vịnh Subic, Philippines.
Sau khi ở trại tạm
trú cho người tị nạn mà chính phủ Mỹ gấp rút dựng lên tại đó, gia đình bà Ánh
tiếp tục được chuyển qua thêm vài trại nữa ở đảo Guam, lãnh thổ của Mỹ ở Tây
Thái Bình Dương.
Đến mùa thu 1975,
gia đình bà được đưa sang Mỹ, kịp để anh trai bà được cứu sống từ cơn bệnh thập
tử nhất sinh.
"Giữa tháng
10/1975, gia đình tôi được nhà thờ First Baptist Church ở Hoa Thịnh Đốn bảo trợ
cho ra khỏi trại tị nạn. Nhà thờ vô cùng tử tế, họ đã hết lòng bảo bọc mặc dù
chúng tôi là người ngoại đạo," bà Ánh kể lại.
"Ra khỏi trại
là nhà thờ đem thẳng tôi và gia đình lên Nữu Ước để mẹ tôi có thể thực hiện
ghép thận của bà cho anh tôi lúc đó bị suy thận, thành ra tôi không được đi học
ngay lúc đó mà phải chờ đến đầu tháng 3/1976, sau khi ca mổ đã thành công, nhà
thờ đưa chúng tôi từ Nữu Ước về bang Maryland thì tôi mới được đi học lại."
Đi học trễ nửa năm,
lạ nước lạ cái, cộng với vốn tiếng Anh "chỉ khoảng 50 từ" đã khiến
cho những tháng ngày đầu tiên đến lớp của cô gái 15 tuổi đến từ Việt Nam trở
nên vất vả.
"Học sinh ở
trong trường lúc đó đa số chỉ đứng xa nhìn tôi bằng con mắt tò mò, nhưng thiểu
số thì kì thị ra mặt, cứ đi theo trêu chọc tôi và dùng những lời lẽ rất miệt thị,"
bà Ánh chia sẻ.
"Ngày đó tôi
mang trong lòng một sự tự ái dân tộc vô cùng to lớn, tôi tưởng tượng như là
mình đang đeo trên lưng cái cờ vàng ba sọc đỏ. Thành ra tôi vô cùng tức tối và
tự nhủ là mình phải làm sao học thật giỏi để có thể qua mặt được hết những người
kì thị mình, để không ai có thể kinh thường được người Việt Nam."
Nhưng chỉ riêng quyết
tâm là không đủ, chính cha của bà đã khuyên người con gái mê văn chương, năm
nào cũng được phần thưởng hạng nhất ở trường Lê Quý Đôn, Sài Gòn, phải hiểu rõ
những ưu khuyết điểm khi chuyển sang một môi trường mới cách nửa vòng trái đất.
"Tôi đã từng mơ
là khi lớn lên sẽ trở thành một nhà văn nổi tiếng, nhưng bất ngờ tôi bị bứng ra
khỏi cái gốc Việt Nam của mình, trở thành một người khố rách áo ôm. Bấy giờ ở
trong một trường học Mỹ thì văn chương không thể nào là sở trường của tôi được
nữa, nhất là với vốn tiếng Anh lõm bõm của tôi, mà phải chọn theo toán, lý,
hóa…"
Nữ sinh Dương Nguyệt Ánh khi còn học trường Lê Quý Đôn ở Sài Gòn
Quyết định đó đã khiến
bà nhiều đêm khóc thầm vì tin rằng chỉ có văn chương mới chắp cánh cho trí tưởng
tượng và khả năng sáng tạo của mình, còn các môn khoa học là khô khan và chán
ngắt.
Nhưng chính những
môn học đó đã giúp bà không mất nhiều thì giờ để học thuộc lòng mà có thời gian
đi làm thêm để trang trải cuộc sống, và càng học thì bà lại càng say mê từng
nguyên tắc, từng định lý được áp dụng.
"Điều làm tôi
thỏa chí nhất là việc tôi đã thắng được cuộc chiến thầm lặng năm xưa. Tức là
tôi đã qua mặt được hết những học sinh Mỹ ngày xưa kì thị tôi, miệt thị người
Việt Nam, làm cho tôi mất ăn mất ngủ vì tự ái dân tộc," bà Ánh kể lại.
"Rốt cuộc chỉ
vì mình nghèo, vì tự ái dân tộc mà đành bấm bụng bỏ văn chương theo khoa học,
nhưng rồi tôi đã say mê khoa học và không hề hối tiếc," nữ khoa học gia
cho biết.
'Quý bà Bom' ở Lầu
Năm Góc
Từng lớn lên trong
khói lửa bom đạn và với thân phận của một người tị nạn chiến tranh, bà Nguyệt
Ánh luôn mang hoài bão là phải trả ơn và thương quý những người chiến sĩ của
mình.
"Tôi không bao
giờ quên hoàn cảnh bi thương của những người lính Việt Nam Cộng hòa, trong đó
có anh tôi là một phi công. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, họ đã phải chiến
đấu trong một hoàn cảnh tuyệt vọng, hết vũ khí đạn dược khi Hoa Kỳ cắt viện trợ
quân sự, rồi cuối cùng bị bỏ rơi và được ra lệnh phải đầu hàng."
"Thành ra tôi
không bao giờ muốn những người lính Hoa Kỳ bây giờ đang bảo vệ cho sự tự do của
tôi và gia đình phải lâm vào hoàn cảnh đó," bà Ánh bộc bạch.
Vì vậy, sau khi ra
trường, bà tìm đến và xin vào làm việc cho Naval Surface Warfare Center ở
Indian Head, Maryland, một trung tâm của Hải quân Mỹ chuyên nghiên cứu, chế tạo
những loại nhiên liệu cho tên lửa, thuốc súng, đạn đại bác, chất nổ cho nhiều
loại vũ khí khác nhau cho quân đội Hoa Kỳ.
"Rất may mắn là
tôi đã tình cờ vào được một nơi quy tụ toàn những khoa học gia ưu tú hàng đầu của
Hoa Kỳ trong lãnh vực chế tạo chất nổ. Thành ra ngay từ đầu tôi đã được may mắn
học hỏi từ thầy hay, bạn giỏi, rồi nghề dạy nghề để tôi trở thành một chuyên
gia về chất nổ," bà cho biết.
Thành quả của bà là
10 chất nổ mới cho 18 loại vũ khí khác nhau cho quân đội Hoa Kỳ, và được giao
trọng trách lãnh đạo toàn bộ chương trình nghiên cứu và phát triển chất nổ cho
Hải quân Mỹ.
Để rút ngắn thời
gian như vậy, bà và đội của mình đã làm việc không ngừng nghỉ và đốt giai đoạn,
làm mọi thứ song song với nhau.
"Đốt giai đoạn
có nghĩa là vừa làm bước A vừa làm bước B, nếu bước A hỏng thì quay về thử nghiệm
lại, còn nếu tiên lượng đúng thì có lúc bước A xong thì bước B, bước C… đã xong
luôn rồi. Cuối cùng, khi đã làm thành một quả bom lớn thì mới mang tới một hang
núi tại một căn cứ của Bộ Quốc phòng ở bang Nevada để thử nghiệm sức công
phá," bà giải thích.
Nhờ đó mà bà và cấp
phó được Hải quân Mỹ trao Civilian Meritus Medal (Huy chương dân sự cao quý), cả
toán khoa học gia và chuyên gia gần 100 người đã được tặng giải thưởng Roger
Smith Team Award, và đặc biệt là cả 2.200 nhân viên tại trung tâm Naval Surface
Warfare Center ở Indian Head đều nhận được bằng tuyên dương trước quân đội của
Bộ trưởng Hải quân.
"Đó là một sự
kiện chưa từng xảy ra, vì thường thì bằng tuyên dương này chỉ dành cho những
đơn vị tham chiến trong quân đội chứ chưa bao giờ được tặng cho một trung tâm
khoa học kỹ thuật, mà toàn nhân viên dân sự hết. Và tất cả nhân viên của Indian
Head nơi tôi làm việc đều được hãnh diện đeo huy chương này trên ngực áo,"
bà chia sẻ.
Ngay sau đó, Bộ Hải
quân và Bộ Quốc phòng đã cho phép các ký giả đến tận căn cứ để phỏng vấn bà Ánh
và các khoa học gia về công việc chế tạo chất nổ. Ngoài những bài báo và phim
tài liệu được phát trên các kênh truyền thông, rất nhiều độc giả đã gửi thư về
sở làm của bà, người phụ nữ chỉ cao hơn 1m50 từ đó được công chúng biết đến với
biệt danh The Bomb Lady (Quý bà Bom).
"Những điều đó
làm cho Phòng Giao tiếp [Public Affairs Office] của Bộ Hải quân và Bộ Quốc
phòng rất vui, nhưng phía NCIS [Naval Criminal Investigative Service - cơ quan
điều tra tội phạm và phản gián của Hải quân] thì rất phiền lòng."
"Họ lo cho an
nguy của tôi, nhất là trước hay sau mỗi chuyến công vụ ra ngoại quốc, lo sợ rằng
tôi đã trở thành mục tiêu dễ dàng cho những các nỗ lực thâu thập tin tức tình
báo hay khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ."
"Thời tôi lãnh
đạo đội ngũ chế tạo các loại chất nổ cho những vũ khí dưới nước của Hải quân
thì ở sở gọi tôi là The Underwater Queen (Nữ hoàng dưới nước), tại vì dưới nước
mà. Rồi đến khi tôi phụ trách hết cả chất nổ trên cạn và dưới nước thì họ gọi tắt
là The Queen (Nữ hoàng) thôi."
"Nhưng còn một
cái tên nữa mà tôi 'bị đặt' là khi tôi làm trưởng phái đoàn tiểu ban chất nổ của
Hoa Kỳ ở NATO, đến Brussels sáu tháng một lần để họp với NATO. Năm đó Pháp là
chủ tọa, họ đã đặt cho tôi cái tên The Iron Lady, tại vì tôi bướng bỉnh, không
muốn Mỹ góp 40% cho tất cả các chương trình làm việc chung của NATO. Mỹ đóng
góp vậy, còn Anh, Pháp, Đức… thì sao? Thành ra họ phải soạn lại những chương
trình mà họ từ đầu đinh ninh là Mỹ sẽ đóng 40%."
The Iron Lady (Bà Đầm
Thép) là biệt danh của bà Margaret Thatcher, Thủ tướng Anh giai đoạn từ năm
1979 tới năm 1990, người được biết đến với những chính sách cứng rắn.
"Phải nói thật
là lúc đó tôi hơi bực với phái đoàn Pháp nhưng mà nghĩ lại có lẽ The Iron Lady
là danh xưng tôi thích nhất, vì khi đó tôi phải bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ,
không thể chỉ vì muốn người ta thích mình mà nhượng bộ để cho dân Mỹ đóng thuế
nai lưng," chuyên gia về chất nổ cho hay.
Được ông Trump tham
vấn và vinh danh?
Hồi tháng Sáu, khi Tổng thống Donald Trump ra lệnh cho sáu phi cơ B-2 thả 14 quả bom xuyên boongke xuống các cơ sở hạt nhân ở Iran, mạng xã hội lan truyền thông tin rằng đó là bom áp nhiệt do bà Ánh cùng các đồng nghiệp phát triển, xuất hiện cả ảnh ghép bà được ông Trump tham vấn và vinh danh.
Bà Ánh nói rằng đây là tin đồn thất thiệt.
"Tôi xin xác nhận
là tôi đã về hưu cả 5 năm nay rồi, thành ra tôi không có tiếp xúc nào với Tòa Bạch
Ốc hay với Tổng thống Trump, và tôi không có phận sự nào trong vụ thả bom ở
Iran hồi tháng Sáu vừa rồi," bà khẳng định.
Ngoài ra, The Bomb
Lady cũng cải chính một số thông tin lan truyền trên mạng về mình. Một trong số
đó là tin đồn bà đã được thăng hàm cấp tướng.
"Thời tôi làm cố
vấn khoa học kỹ thuật cho Tư lệnh phó Hải quân ở Ngũ Giác Đài, đúng là tôi làm
việc trực tiếp cho một ông tướng ba sao, một ông Phó Đô đốc Hải quân. Nhưng lúc
đó cấp bậc dân sự của tôi chỉ ngang với đại tá thôi và tôi không phải là nhà
binh."
"Sau này, khi
tôi trở thành một Senior Executive trong Bộ Nội an thì chức vụ của tôi lúc đó
được xem là tương đương với một tướng ba sao trong quân đội. Tương đương có
nghĩa là khi đi họp hay làm việc chung với những người trong Bộ Quốc phòng chẳng
hạn, thì tôi sẽ ở vị trí ngang với ai. Thành ra chức vụ của tôi lúc đó được định
vị là tương đương với trung tướng, nhưng không có nghĩa tôi là trung tướng quân
đội."
Senior Executive
Service (SES) là ngạch công chức cao cấp nhất trong chính phủ Mỹ. Các Senior
Executive phải qua một quá trình tuyển chọn ở cấp quốc gia và làm việc trực tiếp
dưới những công chức chính trị (political appointee) do chính phủ bổ nhiệm.
Các political
appointee (bộ trưởng, thứ trưởng, phụ tá….) sẽ ra đi sau khi hết nhiệm kỳ hoặc
khi tổng thống mãn nhiệm. Còn các SES vẫn tiếp tục phục vụ.
Bà Ánh cho biết một
số người gốc Việt khác đã đạt ngạch SES, như bà Phan Thái Lương Giao (được biết
tới trong vai trò lãnh đạo chế tạo hàng không mẫu hạm), ông Bùi Quang Hiển
trong chức vụ lãnh đạo cao cấp về IT cho FBI, ông Nguyễn Hùng thuộc Ngân khố Quốc
gia, ông Trần Kim Huy ở NASA...
Bên cạnh đó, bà cũng
đính chính rằng bà không có bằng tiến sĩ như một số tờ báo trong nước đưa tin,
mà học vị cao nhất của bà là cao học, tương đương thạc sĩ bên Việt Nam.
"Nhiều người thắc
mắc tưởng phải là tiến sĩ mới làm được khoa học gia, nhưng mà thật ra không nhất
thiết như vậy. Ngược lại, có nhiều người là tiến sĩ khoa học mà lại không làm
được việc của khoa học gia vì không đủ kiến thức hoặc kinh nghiệm," bà lý
giải.
"GBU-57 là một
loại bom khổng lồ, nó nặng 30.000 pound (13.000 kg) và trong đó chứa đến 7.000
pound (hơn 3.000 kg) chất nổ. Vì vậy nó phải có hai giai đoạn, giai đoạn một là
nó phải đủ mạnh để xuyên qua được những lớp đất đá trước khi tới mục tiêu ở dưới
sâu, vì vậy nó phải có thật nhiều kinetic energy [động năng], đồng nghĩa với việc
đầu của quả bom càng nặng càng tốt và nó phải được thả ở độ cao tối đa, vì vậy
mới dùng đến siêu oanh tạc cơ B-2 và một quả bom khổng lồ như thế."
"Trong giai đoạn
một đó, chất nổ bên trong quả bom phải ngồi yên, chịu đựng, nếu nó nhạy quá,
phát nổ khi chưa đến mục tiêu thì hỏng chuyện. Giai đoạn hai là khi quả bom đã
lọt được vào mục tiêu ở sâu dưới đất rồi thì chất nổ mới được phép làm việc."
"Trong khi đó,
quả bom áp nhiệt mà chúng tôi phải làm gấp trong 67 ngày cho chiến trường A Phú
Hãn là một quả bom rất nhẹ. Nó chỉ có 2.000 pound (907kg) thay vì 30.000 pound,
tức là nhẹ hơn gấp 15 lần, và chất nổ bên trong chỉ có 500 pound (hơn 225 kg).
"Bom này thả ở
gần cửa hang, không phải xuyên thủng đá núi để lọt vào tận bên trong sào huyệt
của địch, nhưng chất nổ áp nhiệt có phạm vi tác động xa, vẫn có đủ sức nóng, áp
suất để lan vào trong cả ngàn thước."
Nhưng điểm tương đồng
ở hai quả bom này là chất nổ đều không được quá nhạy để phát nổ quá sớm. Kỹ thuật
đó, bà Ánh cho biết, là của Hải quân Mỹ, trong một chương trình do các khoa học
gia đề xướng từ đầu thập niên 1990 và được bà cùng các cộng sự kiện toàn vào cuối
thập niên đó.
Vũ khí mang lại chiến
tranh hay hòa bình?
Nhưng bà cho rằng vũ
khí là một phương tiện cần thiết. "Nếu lý luận là không nên phát triển vũ
khí vì chúng chỉ tạo ra chiến tranh thì khác nào nói rằng một quốc gia yêu chuộng
hòa bình thì không cần phải có quân đội," bà Ánh đặt vấn đề.
"Chiến tranh dĩ
nhiên là bao giờ cũng gây ra chết chóc, đau thương cho cả hai bên. Một người từng
lớn lên trong chiến tranh, từng tị nạn chiến tranh như tôi thì hiểu hơn ai hết
cái sự tàn khốc và tàn nhẫn của chiến tranh," bà chia sẻ.
Vì vậy, mặc dù mong
rằng Mỹ sẽ không bao giờ phải dính vào một cuộc chiến tranh nào, nhưng bà cho
là Washington sẽ không thể tránh được vì phải tự vệ hoặc một lý do nào đó.
"Tôi quan niệm
rằng vũ khí chỉ là một phương tiện, nhưng là phương tiện sau cùng. Giống như
người học võ, bao giờ cũng được dạy ngay từ đầu là dùng võ để tự vệ, để giúp
người, chứ không phải dùng võ để hà hiếp người, để lấn át người."
"Thành ra tôi
muốn dạy các con rằng bạo lực là không được, khi mình gặp phải một thử thách
nào đó thì phải tìm đủ mọi cách để vượt qua, phải giải quyết bằng trí thông
minh, tình cảm, chứ không dùng bạo lực, trừ khi là để tự vệ," bà chia sẻ.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.