
Chiến trường An Lộc
là một phần của cuộc tấn công mùa xuân 1972 của Bắc quân, đó là một cuộc tấn
công ba mũi được thiết kế để làm sụp đổ chính quyền và quân đội Nam Việt Nam.
Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, với ba sư đoàn quân Bắc Việt
của Mặt trận B-5 đã tiến công về phía nam, tràn qua khu vực phi quân sự tới Quảng
Trị và Huế. Thêm vào đó, các lực lượng Bắc quân dưới sự điều động của Mặt trận
B-3 đã tấn công Kon Tum ở Cao nguyên Trung phần. Ba ngày sau đó, ba nhóm lực lượng
Bắc quân dưới sự điều động của các tổng tư lệnh Mặt trận B-2 đã tấn công tỉnh
Bình Long, Vùng III chiến thuật. Tổng cộng có 14 sư đoàn Bắc quân và 26 trung
đoàn độc lập, bao gồm 120.000 binh sĩ và ước tính 1.200 xe tăng và chiến xa đã
tham gia vào cuộc phản công này, vốn được gọi là Chiến dịch Nguyễn Huệ.
Vùng III chiến thuật bao gồm 11 tỉnh lỵ xung quanh Sài Gòn, nằm giữa cao nguyên miền trung và châu thổ sông Cửu Long. Tỉnh Bình Long nằm ở phía tây bắc khu vực và giáp với biên giới Campuchia ở phía tây. Tỉnh lỵ An Lộc có dân số 15.000 người, bao quanh bởi 75.000 mẫu đất đồn điền cao su. Nó cặp theo Quốc lộ 13, một xa lộ chạy thẳng từ biên giới Campuchia tới thủ đô miền Nam Việt Nam, nơi chỉ cách An Lộc chừng 100km.
Mặt trận B-2 chiếm
An Lộc đã huy động ba sư đoàn Cộng quân Bắc Việt cùng các lực lượng yểm trợ
khác. Vào thời điểm đó, dù một số đơn vị cộng sản vẫn theo kiểu Việt cộng truyền
thống, các sư đoàn này đã được tổ chức và trang bị thành đơn vị chủ lực của
quân đội Bắc Việt, gồm chủ yếu các chiến binh từng đi đường mòn Hồ Chí Minh vào
Nam. Theo kế hoạch, Sư đoàn 9 Việt Cộng, vốn được xem là một trong những đơn vị
tinh nhuệ, được chọn tấn công An Lộc. Sư đoàn 7 Bắc quân có nhiệm vụ chặn tiếp
liệu và quân từ Sài Gòn tới An Lộc bằng cách cắt Quốc lộ 13 đoạn phía nam An Lộc,
giữa Chơn Thành và Lai Khê. Sư đoàn 5 Việt Cộng, vốn đã khởi động chiến dịch tiến
công ở Bình Long bằng việc chiếm Lộc Ninh, sẽ tham gia cùng Sư đoàn 9 tấn công
An Lộc sau đó.
Không lâu sau, Sư
đoàn 9 Việt Cộng chiếm sân bay dã chiến Quản Lợi, chỉ cách An Lộc ba cây số về
đông bắc. Việc Quản Lợi thất thủ cùng với Quốc lộ 13 phía nam bị Sư đoàn 7 Bắc
quân chặn đứng đồng nghĩa An Lộc bị bao vây và cắt đứt mọi nguồn yểm trợ, mở đầu
cuộc vây hãm kéo dài gần 3 tháng.
Sau đó là một khoảng
lặng ngắn khi Bắc quân chuẩn bị cho cuộc tấn công chính vào thị trấn. Tới trưa
12 tháng 4, lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong và quanh thị trấn đã
tăng lên 9 tiểu đoàn bộ binh, gồm quân của Sư đoàn 5, 18, lính biệt kích và địa
phương quân. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh Sư đoàn 5, bắt đầu chỉ huy toàn bộ
các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong thị trấn.
Sáng 13 tháng 4, Bắc
quân khai hỏa bằng pháo, cối và hỏa tiễn. Ngay sau bình minh, họ phối hợp bộ
binh và thiết giáp tấn công từ đông bắc. Xe tăng T-54 và PT-76 của Liên Xô tràn
vào trên trục đường chính bắc-nam thị trấn.
Đơn vị TF-52 của
chúng tôi gánh phần nặng nhất ở phía bắc. Binh sĩ chưa từng đối đầu xe tăng và
chỉ có ít vũ khí chống thiết giáp, nên chúng tôi rút về phía nam dọc con lộ bắc-nam
đến một cứ điểm do lực lượng tỉnh lỵ Bình Long trấn giữ. Thế trận tạm ổn định
khi một binh sĩ địa phương hạ một xe tăng địch bằng súng chống tăng M-72 (LAW).
Chiến sự quyết liệt
suốt ba ngày khi quân Bắc Việt lấn từng ngôi nhà. Cả hai bên chịu thương vong nặng
nề. Quân lực Việt Nam Cộng hòa suy yếu nhiều dù đã chiến đấu hết sức. Sau ba
ngày, Bắc quân mất 23 xe tăng nhưng đẩy lùi Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào một
đồn lũy chu vi chỉ 1.000–1.500 mét ở phía nam thị trấn, trong khi chiếm giữ phần
còn lại. Có lúc hai bên chỉ cách nhau chiều rộng một con đường. Thỉnh thoảng
quân tấn công gần chiếm được hầm chỉ huy của tướng Hưng, nhưng mỗi lần như vậy
lại buộc phải rút lui.
Yếu tố chủ đạo cản
trở cuộc tấn công mở màn của Bắc quân vào An Lộc là sự yểm trợ của không quân
Hoa Kỳ, được điều phối bởi các cố vấn Mỹ phối hợp với Quân lực Việt Nam Cộng
hòa trên trận địa. Trong khi binh sĩ và các oanh tạc cơ của Không quân, Hải
quân, Thủy quân Lục chiến, cùng máy bay AC-130 và trực thăng tấn công phối hợp
chặt chẽ với lực lượng phòng thủ trực diện, tướng James F. Hollingsworth điều động
B-52 đánh vào các khu tập kết trong đồn điền cao su quanh thị trấn. Sự yểm trợ
này đã tạo nên khác biệt trong những trận giao tranh khốc liệt ba ngày đầu, cứu
các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa ít quân khỏi thất bại gần như chắc chắn.
Mô hình phản công này tiếp tục được áp dụng trong hai tháng sau đó.
Sau ba ngày, cường độ
chiến cuộc trong thị trấn có vẻ lắng dịu khi Bắc quân giảm công kích vì bị
không kích liên tục. Tuy vậy, họ vẫn siết chặt gọng kìm quanh An Lộc, tiếp tục
nã pháo dữ dội. Hơn 25.000 quả đạn pháo đã được bắn trong ba ngày đầu và còn tiếp
diễn suốt tuần sau khi họ tập hợp lực lượng cho một đợt tấn công mới.
Ngày 16 tháng 4, Thiếu
tướng Nguyễn Văn Minh ra lệnh cho Lữ đoàn 1 Không vận, vốn đang đánh phá hầm
công sự dọc Quốc lộ 13, tiến về phía nam giải tỏa lực lượng địch và mở một cuộc
tấn công trực thăng vào cao điểm ở cánh đông nam An Lộc để tăng cường cho thị
trấn.
Cuộc tấn công chính
của Sư đoàn 9 Việt Cộng bị đẩy lùi nhờ không lực Mỹ và tinh thần kiên cường của
Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Bắc quân buộc phải điều chỉnh kế hoạch, mở cuộc tấn
công mới từ phía đông. Một lần nữa, Sư đoàn 9 đảm trách mũi chủ lực, được yểm
trợ bởi Sư đoàn 5 và 7, đánh vào các cứ điểm của Lữ đoàn 1 Không vận ở đông
nam. Để đối phó không lực Mỹ, Sư đoàn 9 đưa thêm hỏa lực phòng không, kể cả hỏa
tiễn tầm nhiệt SA-7 Strella và pháo tự hành ZSU-57-2 do Liên Xô sản xuất.
Nỗ lực đánh chiếm An
Lộc lần thứ nhì bắt đầu trước bình minh ngày 19 tháng 4 với hỏa lực cấp tập dội
vào thị trấn, tiếp theo là quân Bắc Việt tràn vào. Lực lượng phòng thủ Quân lực
Việt Nam Cộng hòa và cố vấn chống trả các đợt tấn công liên tiếp, đồng thời
dùng không lực yểm trợ tầm gần tung hỏa lực diệt các đợt biển người của địch.
Trận chiến vô cùng khốc liệt, nhưng nhờ có không quân, binh sĩ phòng thủ vẫn
đánh trả được.
Đến ngày 20 tháng 4,
cường độ tấn công của Bắc quân dịu bớt, song họ vẫn tiếp tục bắn phá bằng pháo
tăng 100mm, hỏa tiễn, pháo, cối. Trong lúc đạn pháo nổ liên hồi, điều kiện sống
ở An Lộc trở nên thảm hại. Binh sĩ phòng thủ và dân thường không kịp chạy đã phải
sống dưới hầm, ra ngoài là đối mặt rủi ro lớn.
Đa phần nhà cửa
trong thị trấn hư hại vì pháo kích liên tục. Khắp nơi hoang tàn, với gạch đá,
cây cối gãy đổ, xác thú nuôi và rác rến vương vãi. Thương vong nặng nề: trên đường
phố và trong đống đổ nát rải rác xác binh sĩ lẫn thường dân. Một cố vấn báo
cáo: "tử thi của đàn ông, đàn bà, trẻ con ở khắp nơi." Mùi tử thi ám
không khí. Trong cảnh ấy, dịch bệnh nhanh chóng lây lan, kể cả dịch tả, trong cả
binh sĩ lẫn dân chúng. Để ngăn dịch, giữa những khoảng lặng của pháo kích, binh
sĩ phải dùng máy xúc đào hố chôn tập thể, có hố chứa 300–500 tử thi. Nhiều xác
còn phải chôn lại vì pháo nổ tung các hố chôn ban đầu.
Đạn pháo phòng không
của địch tăng mạnh tới mức việc tái yểm trợ bằng đường không cho các chiến sĩ
phòng thủ trở nên bất khả thi. Vật dụng y tế cũng dần cạn kiệt và gần như không
còn có thể làm gì khi con số thương vong cứ tăng cao. Tình trạng thực phẩm và đạn
dược cũng chẳng mấy khả quan. Không có bất cứ thứ gì có thể ra hay vào thành phố;
tương tự cũng không có cách nào để chuyển thương binh ra ngoài. Trong điều kiện
thiếu thốn bất hạnh ấy, các binh sĩ phòng thủ đã phải tự chuẩn bị đối phó với
cuộc tấn công dữ dội kế tiếp của Bắc quân.
Cuộc tấn công bắt đầu
lúc 5 giờ sáng ngày 11 tháng 5 của quân Bắc Việt như thường lệ mở màn với đạn
pháo hạng nặng. Trong vòng 12 tiếng tiếp theo, thị trấn đã lãnh trọn 10.000
viên đạn pháo. Trong khi được pháo binh yểm trợ, xe tăng và bộ binh Bắc Việt đã
tấn công phía bắc và tây bắc thị trấn. Địch quân thành công đẩy lùi hai trọng
điểm của tuyến phòng thủ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, gần như chia cách được
phòng tuyến. Chiến trận rất khốc liệt, có lúc các binh sĩ phòng thủ Quân lực Việt
Nam Cộng hòa gần như bị bẻ gãy. Tuy nhiên, sự yểm trợ chiến thuật trên không đã
giúp quân Miền Nam không thua trận khi họ kiên trì cố thủ.
Cho tới cuối tháng
5, mặc dù chiến trận vẫn tiếp diễn nhưng thế trận đang ngả về phía có lợi cho
Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Những đợt không kích suốt ngày đêm đã gây thương
vong nặng nề cho quân Bắc Việt; tin tình báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau
đó ước tính số thương vong Bắc quân trong trận An Lộc là khoảng 10.000 trong
tháng 4 và 5.
Quân Bắc Việt đã dốc
toàn lực vào An Lộc và sẽ không còn tổ chức tấn công quy mô lớn vào đó nữa
trong năm 1972. Đầu tháng 6, Thiếu tướng Minh gửi quân tiếp viện tới An Lộc và
bắt đầu cho những binh sĩ còn sống sót của Sư đoàn số 5 Quân lực Việt Nam Cộng
hòa rút lui. Ngày 16 tháng 8, ông tuyên bố cuộc bao vây An Lộc của địch đã bị bẻ
gãy.
Nhưng điều đó không
có nghĩa là hòa bình đã đến với An Lộc, khi đạn pháo vẫn tiếp tục mặc dù ở mức
độ thấp hơn nhiều. Những cuộc giao tranh vẫn còn diễn ra rải rác trong thành phố
cho tới cuối mùa hè. Ngày 9 tháng 7, Chuẩn tướng Richard Tallman, cấp phó của
tướng Hollingsworth, cùng với ba sĩ quan của ông và một thông dịch viên của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa đã tử trận do đạn pháo của địch quân ngay sau khi vừa hạ
cánh ở An Lộc để phối hợp hành động. Hai sĩ quan Mỹ khác, một trong hai người
là tác giả bài viết này, đã bị thương trong cuộc tấn công đó và đã được trực
thăng tải thương về Sài Gòn.
Tới giữa tháng 7 thì trận An Lộc kết thúc. Những đợt đạn pháo, ước lượng khoảng trên 78.000 viên trong suốt tháng 4 và tháng 5 đã khiến thị trấn gần như hoàn toàn đổ nát. Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 5.400 binh sĩ thương vong, trong đó có 2.300 người chết hoặc mất tích. Sau này có một cố vấn đã mô tả là, "Những nấm mồ, những xe cộ cháy đen và sự hoang tàn đổ nát là chứng nhân câm lặng cho sự khốc liệt của cuộc chiến đã diễn ra ở đây."
Dù sao đi nữa, Quân
lực Việt Nam Cộng đã đứng vững và thị trấn An Lộc vẫn nằm trong tay miền Nam. Mặc
dù cũng có tổn thất, các binh sĩ phòng thủ cùng các cố vấn của họ, với sự giúp
đỡ của không lực chiến thuật Hoa Kỳ, đã kiên quyết đánh bại được ba sư đoàn
tinh nhuệ của quân Bắc Việt và giữ được thị trấn dù lép vế hơn hẳn.
Thành thật mà nói
thì trong cuộc chiến đấu bảo vệ An Lộc, Quân lực Việt Nam Cộng đã chiến đấu
không đồng đều, có những đơn vị đã không có được hào quang chiến thắng. Nhưng
những đơn vị khác đã chiến đấu với kỹ năng tác chiến và lòng dũng cảm siêu phàm.
Sau khi chiến cuộc kết thúc, Trung tá Laddie Logan đã xác nhận rằng, "Đội
biệt kích dù 81 đã không hề từ bỏ dù chỉ một tấc đất, họ không bao giờ bỏ lại một
xác đồng đội mà không chôn cất, ngay cả khi đang ở dưới những đợt pháo đạn nặng
nề nhất."
Lúc Bắc quân bắt đầu
tấn công, đội biệt động quân số 3, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Nguyễn Văn Biết,
có khoảng hơn một ngàn binh sĩ; sau ba tháng chiến đấu có 346 người tử trận hoặc
bị thương. Yểm trợ y tế rất ít ỏi, nhưng các binh sĩ trong phần lớn cuộc chiến
đã duy trì chiến đấu với khả năng cao nhất của mình trong những tình huống vô
cùng ngặt nghèo.
Các lực lượng địa
phương quân dưới sự chỉ huy của Đại tá Trần Văn Nhựt nói chung đã rất xuất sắc
trong suốt thời gian An Lộc bị bao vây. Họ được trang bị đầy đủ, được huấn luyện
kỹ càng và được chỉ huy tốt. Nhiều người có người thân thiệt mạng và đã phải chứng
kiến nhà cửa của mình bị phá hủy trong cuộc chiến. Họ có lý do để chiến đấu và
họ quả thực đã chiến đấu hết sức mình để chống lại quân chính quy Bắc Việt; họ
vẫn giữ được tinh thần cao mặc dù thương vong nặng nề.
Trong từng khoảnh khắc
của cuộc chiến, tinh thần chỉ huy là yếu tố chính của khả năng chiến đấu của một
đơn vị; ở đâu có người chỉ huy xông xáo, cùng chia sẻ khó khăn gian khổ với
binh sĩ thì ở đó thái độ và sự thi hành nhiệm vụ của binh sĩ là hết sức mẫu mực.
Chẳng hạn, khi quân Bắc Việt bao vây một tiểu đoàn Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở
nhà tù thị trấn vào đêm 10 rạng sáng ngày 11 tháng 5, binh sĩ miền Nam đã gần hết
đạn dược và gần như không còn phương tiện tự vệ nữa. Quân Bắc Việt đã nhắn gọi
người chỉ huy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa rằng, ông đã chiến đấu rất giỏi,
nhưng đã bị bao vây, rằng ông có thể đầu hàng trong danh dự và sẽ được bảo vệ;
nhưng nếu không đầu hàng thì ông và toàn bộ binh sĩ của ông sẽ bị giết. Người
chỉ huy ấy đã trả lời rằng, ông không bao giờ đầu hàng như vậy. Trong vài tiếng
đồng hồ sau đó, quân Bắc Việt tràn vào vị trí chỉ huy. Vị chỉ huy tiểu đoàn đó
và các binh sĩ của ông đã chiến đấu tới người lính cuối cùng. Thi thể của họ đã
được tìm thấy vào ngày 12 tháng 6, lúc Trung đoàn số 7 Quân lực Việt Nam Cộng
hòa rà soát khu vực đó khi đang giằng co từng căn nhà với địch. Viên chỉ huy và
các binh sĩ của ông đã dũng cảm hy sinh trong chiến đấu.
Trong một trường hợp
khác, viên chỉ huy trưởng Trung đoàn số 7, Thiếu tá Lý Đức Quân (sau này được Tổng
thống Thiệu phong hàm đại tá tại mặt trận) đã ba lần bị thương trong suốt cuộc
chiến. Trong giai đoạn căng thẳng nhất vào giữa tháng 5, ông đã chỉ huy chiến đấu
trong khi bản thân đang nằm trên cáng cứu thương.
Dù vậy, không người
nào đã từng ở An Lộc lúc đó có thể phủ nhận thực tế là không lực Hoa Kỳ, dưới bất
kỳ hình thức nào, là một yếu tố then chốt trong việc bảo vệ thị trấn. Nếu không
có sự yểm trợ không lực đó thì thị trấn ắt hẳn đã thất thủ ngay khi cuộc tấn
công bắt đầu. Có tổng cộng 247 phi vụ B-52 cùng với 9.203 cuộc tấn công chiến
thuật hàng không để chống trả quân Bắc Việt ở Lộc Ninh, An Lộc và dọc theo Quốc
lộ 13. Xét về mọi mặt thì yểm trợ không lực chiến thuật là một yếu tố chủ đạo của
chiến thắng.
Đại tướng Creighton
Abrams, cựu chỉ huy viện trợ quân sự Việt Nam, sau này có tuyên bố rằng, theo
quan điểm của ông, thì "Không lực Hoa Kỳ… đã khiến quân Bắc Việt thua trận."
Các tướng lãnh Nam Việt Nam cũng đồng ý rằng thị trấn có thể đã thất thủ nếu
như họ không có được sự đáp ứng của các trực thăng chiến đấu của quân đội phối
hợp với yểm trợ của Không Lực Hoa Kỳ.
Đại tướng Cao Văn
Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã phát biểu sau cuộc
chiến rằng, "Nếu không có sự yểm trợ chiến thuật trên không này thì thắng
lợi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong việc đẩy lùi sự xâm lăng của địch quân
là bất khả thi."
Với tất cả những điều
nêu trên, cần phải nhớ rằng, khi chiến cuộc ở An Lộc kết thúc, các đạo quân miền
Nam Việt Nam đã đứng vững trong tình huống quá sức mình. Giống như phóng viên
Rudolph Rauch của tờ Time đã dẫn lời một trong các cố vấn quân sự Hoa Kỳ ở An Lộc
rằng, "Cách duy nhất để tiếp cận cuộc chiến ở An Lộc là nhớ rằng Quân lực
Việt Nam Cộng hòa đang ở đó, còn quân Bắc Việt thì không. Nhìn nó dưới bất kỳ
nhãn quan nào khác là một sự bất công cho người Việt Nam."
Một thực tế là sự hy
sinh của các chiến sĩ ở An Lộc (cũng như đồng đội của họ ở Kon Tum và Quảng Trị)
trong năm 1972 đã được chứng tỏ là vô ích. Với sự yểm trợ của Hoa Kỳ, quân đội
miền Nam đã đứng vững ở An Lộc và Kon Tum, và chống trả để lấy lại Quảng Trị. Xét
cho cùng, họ đã chiến thắng chống lại tất cả những gì Cộng quân tung ra.
Sau chiến cuộc 1972,
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đồng ý với Hiệp định Hòa bình Paris chủ yếu vì
những lời hứa mà Richard Nixon lặp đi lặp lại rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục yểm trợ
miền Nam. Họ tự giữ vững trong suốt cuộc chiến kéo dài tới năm 1974, thế nhưng
khi Bắc Việt gia tăng cường độ vào tháng 12 năm đó, lời hứa yểm trợ vốn dĩ đã
được thực hiện trong những trận chiến tuyệt vọng năm 1972 đã không hề được thực
hiện; và cuối cùng miền Nam phải rơi vào tay Cộng sản. Dù vậy, người ta không
bao giờ quên được sự dũng cảm mà các binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã thể
hiện trong năm 1972.
Tác giả: Tiến sĩ
James H. Willbanks là trung tá Lục quân Hoa Kỳ, cựu chiến binh Chiến tranh Việt
Nam và sử gia quân sự. Ông từng làm cố vấn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong
Mùa hè đỏ lửa 1972, trải qua trận vây hãm An Lộc, hai lần bị thương và được
trao Huân chương Sao Bạc, hai Sao Đồng, hai Tử Tâm; cùng ba Huân chương Anh
dũng Bội tinh của Việt Nam Cộng hòa. Sau khi giải ngũ năm 1992, ông trở thành
giáo sư và giám đốc Bộ môn Lịch sử Quân sự tại Trường Chỉ huy – Tham mưu Lục
quân Hoa Kỳ, được phong giáo sư danh dự. Willbanks là tác giả nhiều công trình
nghiên cứu quan trọng về Chiến tranh Việt Nam như Thiet Giap! The Battle
of An Loc (1993), The Tet Offensive: A Concise History (2008)
và A Raid Too Far (2014), đồng thời được ghi nhận rộng rãi vì đóng
góp học thuật và giúp công chúng hiểu rõ hơn về cuộc chiến.
James H. Willbanks & Joaquin
Nguyễn Hòa
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.